Trang chủ > Lớp 8 > Soạn Văn 8 (hay nhất) > Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (trang 97 Ngữ văn 8 tập 2)

Tìm hiểu yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận (trang 97 Ngữ văn 8 tập 2)

I. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận

1. a, Những từ ngữ thể hiện tình cảm mãnh liệt của tác giả trong bài văn:

Từ ngữ: muốn hòa bình, cần phải nhân nhượng, càng lấn tới, quyết tâm xâm lược nước ta, thà hi sinh, nhất định không, phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, thắng lợi nhất định thuộc về dân tộc ta.

Các câu cảm thán:

+ Hỡi đồng bào toàn quốc!

+ Hỡi các anh em binh sĩ, dân quân, tự vệ!

+ Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu cảnh mất nước nhất định không thể chịu làm nô lệ.

- Cả "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn và "Lời kêu gọi toàn dân kháng chiến" của Bác Hồ đều giống nhau ở việc đều dùng nhiều câu văn và từ ngữ giàu tình cảm.

b, Cả 2 văn bản cho trên đều là văn bản nghị luận vì 2 văn bản đó không thể hiện cảm xúc mà là hướng đến việc tác động tới lý trí của người đọc, buộc người đọc cần phải hiểu và phân tích để luận bàn về lẽ phải, trái, đúng sai của một ý kiến, một quan điểm.

c, Những câu văn ở đoạn 2 hay hơn so với đoạn 1 vì nó giàu sức biểu cảm khi kết hợp các từ ngữ thể hiện thái độ và tình cảm của người viết.

Yếu tố biểu cảm khi sử dụng trong văn nghị luận sẽ có hiệu quả thuyết phục cao hơn, tác động mạnh mẽ đến người đọc/nghe.

2. Phương pháp phát huy tác dụng của yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận:

- Người viết ngoài việc suy nghĩ về lập luận, luận điểm còn phải thực sự thể heienj được sự xúc động trong những điều mình đang nói tới.

- Không phải chỉ cần rung cảm, mà là cần phải có tình cảm và cảm xúc thật sự trước những vấn đề mà bản thân đang trình bày.

- Không phải bài văn cứ dùng nhiều từ ngữ biểu cảm và nhiều câu cảm thán thì nó mới có giá trị biểu cảm cao vì những yếu tố đó chỉ là phụ trợ. Cảm xúc và sự rung động thật sự đó mới là biểu cảm chân thành thuyết phục người nghe chứ không phải sự đưa đẩy bóng bẩy bằng ngôn từ.

II. Luyện tập

Bài 1:

Các yếu tố biểu cảm trong phần I - Chiến tranh và "Người bản xứ" được bộc lộ qua hệ thống các từ ngữ đối lập nhau, hoặc có tính chất châm biếm, mỉa mai.

Các yếu tố biểu cảm trong văn bản " Chiến tranh và người bản xứ" (Thuế máu) được bộ lộ qua hệ thống những từ ngữ đối lập hoặc có tính chất mỉa mai, châm biếm.

+ Những tên da đen bẩn thỉu, những tên "An-nam-mít" bẩn thỉu > < những đứa con yêu và những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lý và tự do.

+ Chiến tranh tươi vui, vinh dự đột ngột > < đột ngột chia lìa vợ con, phơi xác trên các bãi chiến trường.

+ Cảnh kì diệu của chương trình biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi, > < xuống tận đáy biển để bảo vệ môi trường sống của các loài thủy quái.

+ Bỏ xác tại các miền hoang vu, thơ mộng.

+ Lấy máu mình tưới lên những vòng nguyệt quế, lấy xương mình chạm lên những cây gậy.

+ Khạc nhổ ra từng miếng phổi.

- Tác dụng của các từ ngữ này:

+ Giúp người đọc nhìn thấy được bản chất lừa đảo, lọc lõi, và bộ mặt thâm độc, quỷ quyệt của quân thực dân Pháp trong việc dùng người dân thuộc địa để làm bia đỡ đạn cho chúng.

Bài 2:

Đoạn trích trong bài tập này đã bộc lộ những cảm xúc chủ yếu dưới đây của tác giả:

- Nỗi buồn của nhà giáo - người thầy tâm huyết với nghề dạy học - trước tình trạng học vẹt, học tủ của học trò.

- Nỗi lo lắng, dằn vặt của người thầy trước một thực tế đáng buồn đang diễn ra trong lĩnh vực giáo dục của nước nhà trong thời kì trước.

Đoạn trích không những có tác động đến ý chí mà còn có tác động đến tình cảm bởi:

+ Giọng văn chứa đầy những nỗi day dứt, tâm sự và băn khoăn của người viết.

+ Câu văn được viết bằng loại tu từ, có tính chất biểu thị thái độ và diễn tả nỗi đau của tác giả một cách kín đáo: Nói làm sao cho… Không có lí do gì cần nhấm bút… Sao chẳng có một "hãng" nào đó in ra…

- Từ ngữ bộc lộ thái độ đau xót, buồn bã trước thực trạng học tủ, học vẹt của học sinh: nỗi khổ tâm, đeo thêm một cái nghiệp, năm trời, việc gì cứ phải lôi thôi…

Bài 3:

Muốn chiếm lĩnh được tri thức thì cần phải có phương pháp học một cách khoa học thay vì việc học vẹt và học tủ. Học vẹt là học mà không suy nghĩ, học không có tính khoa học, tràng giang đại hải, học theo kiểu bắt chước trong vô thức, không hiểu được bản chất của vấn đề. Còn học tủ là lối học chọn phần tiếp thu nhanh để học. Hai lối học một cách vô thức này đều gây ra hậu họa khôn lường. Học tủ có thể bị "trật tủ", "lệch tủ" và có khả năng bị điểm kém, điểm liệt rất báo động. Học vẹt khiến cho học sinh bị rỗng kiến thức và không chịu tư duy phân tích, tổng hợp các vấn đề. Cả 2 cách học này đều khiến học sinh bị mất cơ bản, mất phương hướng, và đầu óc hoàn toàn trống rỗng khi học. Kiến thức thực sự, khả năng sáng tạo và phát triển tư duy sẽ không được bị triệt tiêu bởi 2 loại phương pháp học vẹt và học tủ lệch lạc, phiến diện.