Trang chủ > Lớp 7 > Soạn Văn 7 (cực ngắn) > Soạn bài: Sự giàu đẹp của tiếng việt - trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2

Soạn bài: Sự giàu đẹp của tiếng việt - trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2

Bản 1/ Soạn bài: Sự giàu đẹp của tiếng việt (siêu ngắn)

Bố cục của bài gồm 2 phần:

- Đoạn 1 (Từ đầu đến... “thời kì lịch sử”): Nêu nhận định tiếng Việt là 1 thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, giải thích nhận định ấy.

- Đoạn 2 (phần còn lại): Chứng minh cái đẹp và sự giàu có, phong phú của tiếng Việt

Nội dung bài học

- Khẳng định sự giàu đẹp của tiếng Việt trên nhiều phương diện: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Nó là một biểu hiện hùng hồn sức sống của dân tộc.

- Thể hiện tình yêu, niềm tự hào đối với tiếng Việt

- Bố cục chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng toàn diện.

I. Đọc – hiểu văn bản

Câu 1 (trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):

Văn bản có thể chia là 2 phần:

- Phần 1 (từ đầu đến "qua các thời kì lịch sử"): Khẳng định tiếng Việt là thứ tiếng hay và đẹp, là niềm tự hào của người Việt Nam.

- Phần 2 (đoạn còn lại): Những minh chứng chứng minh sự giàu đẹp của tiếng Việt.

Câu 2 (trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):

- Câu mở đầu khẳng định giá trị, vị thế của tiếng Việt

- Vế thứ hai, giải thích ngắn gọn nhận định ấy:

+ Tiếng Việt giàu: âm hưởng, thanh điệu, cách đặt câu

+ Tiếng Việt đẹp: Diễn đạt được tình cảm, tư tưởng con người, thỏa mãn đời sống văn hóa qua các thời kì

Câu 3 (trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):

- Các chứng cứ:

+ Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, cái đẹp ở mặt ngữ âm.

+ Ý kiến của một người nước ngoài: ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói, nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ nước ngoài.

+ Hệ thống nguyên âm và phụ âm giàu thanh điệu, phong phú

+ Uyển chuyển, cân đối, nhịp nhàng về mặt cú pháp.

+ Từ vựng dồi dào giá trị thơ, nhạc, họa.

- Cách sắp xếp dẫn chứng: Trực tiếp và gián tiếp

Câu 4 (trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):

Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được thể hiện ở những phương diện:

- Ngữ âm: Hệ thống nguyên âm, phụ âm phong phú và nó lại còn vô cùng giàu thanh điệu

VD: Khi nói đên một sự hài hòa về thanh điệu, sự phong phú về mặt ngôn từ trong Truyện Kiều hoặc trong Chinh phụ ngâm hay trong tác phẩm thơ của Tố Hữu…

- Từ vựng: Luôn luôn dồi dào giá trị thơ ca, giá trị nhạc, họa nó dường như cũng đã lại gợi hình ảnh và chứa được cả nhạc điệu trong đó.

VD: Tác giả Đặng Thai Mai cũng đã tinh tế khi đã làm nổi bật sự giàu có của tiếng Việt bằng việc sáng tạo từ ngữ mới để có thể phù hợp hơn với sự phát triển của xã hội.

- Ngữ pháp: Tiếng Việt của chúng ta sở hữu một hệ thống ngữ pháp vô cùng uyển chuyển, nhịp nhàng.

VD: Sử dụng nhiều kiểu câu trong văn bản: câu đơn, câu ghép, câu rút gọn, câu đặc biệt,...

Câu 5 (trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):

- Phương thức nghị luận đa dạng: Kết hợp giữa giải thích với chứng minh, bình luận.

- Lập luận chặt chẽ: đưa nhận định ngay ở phần mở bài, tiếp đó giải thích và mở rộng nhận định ấy, sau đó dùng các chứng cứ để chứng minh.

- Các dẫn chứng được dẫn khá toàn diện, bao quát, không sa vào những dẫn chứng quá cụ thể, tỉ mỉ.

Luyện Tập

Câu 1 (trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):

- “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu, tiếng ta giàu bởi đời sống của chúng ta muôn màu, đời sống tư tưởng và tình cảm dồi dào của dân tộc ta... Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp; đẹp như thế nào, đó là điều khó nói... ”

(Phạm Văn Đồng - Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt).

- “Hai nguồn giàu đẹp của tiếng Việt là tiếng nói của quần chúng nhân dân và ngôn ngữ văn học mà các nhà thơ lớn đã nâng lên đến mức cao. Tiếng nói hằng ngày của quần chúng nhân dân lao động, trong chiến đấu, trong quan hệ xã hội, cụ thể, sinh động, có hình ảnh, màu sắc và nhạc điệu: Tiếng nói ấy kết đọng lại rất hay, rất đẹp trong tục ngữ và ca dao... ”

(Xuân Diệu - Tâm sự với các em về tiếng Việt).

Câu 2 (trang 37 sgk Ngữ văn 7 Tập 2):

VD1: Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu

(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)

VD2: Chú bé loắt choắt,

Cái xắc xinh xinh,

Cái chân thoăn thoắt,

Cái đầu nghênh nghênh.

(Lượm – Tố Hữu)

VD3: Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao

(Tục ngữ)

VD4: Ông trời

Mặc áo giáp đen

Ra trận

Muôn nghìn cây mía

Múa gươm

(Mưa – Trần Đăng Khoa)

VD5: Càng đổ dần về hướng mũi Cà Mau thì sông ngòi, kênh rạch càng bủa giăng chi chít như mạng nhện. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.

(Sông nước Cà Mau)

Bản 2/ Soạn bài: Sự giàu đẹp của tiếng việt (siêu ngắn)

Bố cục của bài được chia làm 2 đoạn:

- Đoạn 1 (Người Việt Nam ngày nay.... thời kì lịch sử): nêu nhận định tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, giải thích nhận định ấy

- Đọan 2 (còn lại): chứng minh cái đẹp và sự giàu có phong phú (cái hay) của tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Sự giàu đẹp ấy cũng là một chứng cứ về sức sống của tiếng Việt

Câu 1 (trang 37 Ngữ Văn 7 Tập 2):

Bố cục bài văn được chia làm 2 đoạn:

+ Đoạn 1 (Người Việt Nam ngày nay.... thời kì lịch sử): Nêu nhận định tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay, giải thích nhận định ấy

+ Đọan 2 (còn lại): Chúng minh cái đẹp và sự giàu có phong phú (cái hay) của tiếng Việt về các mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Sự giàu đẹp ấy cũng là một chứng cứ về sức sống của tiếng Việt

Câu 2 (trang 37 Ngữ Văn 7 Tập 2): Nhận định trên được giải thích cụ thể trong bài văn này như sau:

- Câu mở đầu khẳng định giá trị và địa vị của tiếng Việt từ đó đưa ra luận điểm bao trùm: Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay

- Tiếp đó giải thích ngắn gọn nhận định

- Tác giả giải thích gọn rõ ràng về đặc tính đẹp, hay của tiếng Việt

Câu 3 (trang 37 Ngữ Văn 7 Tập 2): Để chứng minh cho vẻ đẹp của tiếng Việt tác giả đã đưa ra những chứng cứ sau:

- Tiếng Việt là một thứ tiếng đẹp

+ Ý kiến của những người nước ngoài: ấn tượng của họ khi nghe người Việt nói, nhận xét của những người am hiểu tiếng Việt như các giáo sĩ phương Tây

+ Hệ thống nguyên âm phụ âm phong phú giàu thanh điệu

+ Uyển chuyển cân đối nhịp nhàng về mặt cú pháp

+ Từ vựng dồi dào giá trị thơ nhạc họa

- Tiếng Việt là thứ tiêng hay:

+ Có khả năng dồi dào về cấu tạo từ ngữ và hình thức diễn đạt

+ Có sự phát triển qua các thời kì lịch sử về cả hai mặt từ vựng và ngữ pháp. Cấu tạo và khả năng thích ứng với sự phát triển là một biểu hiện về sức sống dồi dào của tiếng Việt

Câu 4 (trang 37 Ngữ Văn 7 Tập 2): Sự giàu có và khả năng phong phú của tiếng Việt được tác giả chứng minh ở những mặt sau:

- Tác giả giải thích về vẻ đẹp của tiếng Việt:

+ Tiêng Việt là thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng thanh điệu

+ Cái hay của tiếng Việt: tế nhị uyển chuyển trong cách đặt câu, có đầy đủ khả năng diễn đạt tình cảm tư tưởng của con người thỏa mãn nhu cầu phát triển của đời sống văn hóa xã hội

- Phẩm chất đẹp của một ngôn ngữ là khả năng gợi lên cảm xúc chủ yếu được tạo nên bởi hệ thống ngữ âm sự hài hoà về thanh điệu nhịp điệu

- Cái hay là ở khả năng diễn đạt tình cảm tư tưởng phản ánh đời sống phong phú tinh tế chính xác

- Hai mối quan hệ ấy gắn bó chặt chẽ với nhau: cái đẹp phản ánh cái hay, cái hay tạo ra cái đẹp

Câu 5 (trang 37 Ngữ Văn 7 Tập 2):

- Điểm nổi bật trong nghệ thuật lập luận ở bài văn này là phép lập luận chứng minh chặt chẽ giàu sức thuyết phục

+ Lập luận chặt chẽ: đưa ra nhận định ngay ở mở bài tiếp đó giải thích mở rộng các nhận định ấy sau đó dùng chứng cứ chứng minh

+ Các dẫn chứng toàn diện bao quát không xa vào quá cụ thể tỉ mỉ buộc người đọc có những hiểu biết minh họa cho dẫn chứng

Luyện tập

Bài 1 (trang 37 Ngữ Văn 7 Tập 2): Những ý kiến nói về sự giàu đẹp của tiếng việt và nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

- Phạm Văn Đồng: Tiếng Việt của chúng ta rất giàu. Tiếng Việt của chúng ta rất đẹp. Giàu bởi kinh nghiệm đấu tranh của nhân dân ta lâu đời và phong phú. Đẹp bởi tâm hồn của người Việt Nam ta rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu, cái đẹp ấy là ở chỗ tiếng Việt là tiếng nói của nhân dân, đầy tình cảm, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa; đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học mà những nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… và những nhà văn, nhà thơ ngày nay ở miền Bắc và miền Nam đã nâng lên đến trình độ rất cao về nghệ thuật.

- Bác Hồ: Tiếng nói là một thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải gìn giữ nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp.

- Nhà báo Nguyễn An Ninh: Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hy vọng giải phóng giống nòi. […] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình …

- Đặng Thai Mai: Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.

Bài 2 (trang 37 Ngữ Văn 7 Tập 2): Dẫn chứng về sự giàu đẹp của tiếng Việt về ngữ âm từ vựng

+ Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghêng

Ca nô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên đường vàng

( Lượm - Tố Hữu)

+ Thường thường vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí vài con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám, chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.

(Mùa xuân của tôi - Vũ Bằng)

+ Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh rợn chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

+ Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Để trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.

(Thơ duyên - Xuân Diệu)

+ Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

(Cảnh khuya - Hồ Chí Minh)