Ông đồ (Vũ Đình Liên) (Soạn văn 8)
- Phần 1: khổ 1,2: Hình ảnh ông đồ thời xưa.
- Phần 2: khổ 3,4: Hình ảnh ông đồ ngày nay.
- Phần 3: khổ 5: Nỗi hoài niệm của nhà thơ đối với ông đồ.
Câu 1:
- Trong 2 khổ thơ đầu: hình ảnh ông Đồ già viết chữ nho trong dịp Tết là một hình ảnh đẹp. Đó là cái thời đắc ý của ông Đồ. Ông hiện lên trong bài cùng với "hoa đào", "mực tàu" và "giấy đỏ". Ông mang lại niềm vui cho nhiều người khi viết câu đối tết bằng chữ nho. Bao nhiêu người nhờ ông viết đều tấm tắc khen ngợi ông.
- Khổ 3+4: vẫn diễn tả được thời gian ấy, không gian ấy, nhưng không khí đã khác: vắng vẻ dần theo từng năm, đến giờ thì hầu như không còn có mấy "người thuê viết". Giấy cũng thấy buồn, mực cũng thấy sầu. Ông đồ vẫn có mặt ở đó, nhưng người ta đã không còn nhận ra ông, không chú ý đến ông nữa. Ông gần như dần bị lãng quên.
=> Sự khác nhau giữa xưa và nay đã gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm thân phận ông đồ, ông đang bị dần dần lãng quên cùng với thú chơi câu đối một thời. Hai câu thơ: "lá vàng rơi trên giấy - ngoài giời mưa bụi bay" không chỉ là 2 câu thơ tả cảnh mà còn là 2 câu thơ tả cảnh ngộ, tả tâm trạng của ông đồ. Lá vàng rơi - thể hiện của sự tàn úa, lại kèm theo mưa bụi bay. Lạnh lẽo và buồn thảm.
Câu 2: Nỗi lòng của tác giả đối với nhân vật ông đồ:
Năm nay đào lại nở, Không thấy ông đồ xưa.
=> Kết cấu đầu cuối rất tương ứng => Cảnh thiên nhiên tươi đẹp còn hình ảnh ông đồ vắng bóng bị dòng đời, thời gian lãng quên.
Những người muôn năm cũ, Hồn ở đâu bây giờ?
=> Câu hỏi tu từ => Nỗi niềm tiếc thương của tác giả đối với nhân vật ông đồ, với giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
Câu 3: Không chỉ hay ở nội dung hoài niệm mà bài thơ còn hay ở nghệ thuật:
- Cách xây dựng cảnh tương phản: một bên là tấp nập đông vui, một bên thì buồn bã hiu hắt. Một bên nét chữ như rồng bay phượng múa, bên kia thì giấy buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu.
- Kết cấu đầu cuối rất tương ứng. Cũng là thời gian vào ngày giáp tết, cũng là không gian vào mùa xuân, cũng vẫn có hoa đào nở. Nhưng hình ảnh ông đồ cứ dần dần nhạt nhòa. Cuối cùng thì không còn nhìn thấy hình ảnh ông đồ nữa.
- Bài thơ được làm theo thể năm chữ. Lời lẽ khá dung dị, không có gì tân kì. Những hình ảnh thơ sinh động, gợi cảm và nhuốm đầy tâm trạng.
Câu 4:
Những câu thơ "giấy đỏ buồn không thắm - mực đọng trong nghiên sầu- lá vàng rơi trên giấy - ngoài giời mưa bụi bay" là các câu thơ tả cảnh ngụ tình. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa làm cho giấy - mực, những đồ vật vô tri vô giác đã có tâm trạng, cũng biết sầu buồn. Nỗi cô đơn hiu quạnh của con người khi bị xã hội bỏ quên. Cảnh vật cũng trở nên tàn tạ, thiên nhiên cũng thấy buồn theo nỗi buồn của con người
Bài trước: Nhớ rừng (Thế Lữ) (trang 170 Ngữ văn 8 tập 1) Bài tiếp: Câu nghi vấn (Soạn văn 8)