Trang chủ > Lớp 10 > Soạn Văn 10 (hay nhất) > Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối (trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 2)

Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối (trang 123 sgk Ngữ văn 10 tập 2)

Soạn bài: Thực hành các phép tu từ: phép điệp và phép đối

I. Luyện tập về phép điệp (điệp ngữ)

1. a, Nếu thay thế cụm từ “hoa cây này” cho cụm từ “nụ tầm xuân” thì câu thơ sẽ mất đi sự liên kết logic, không đảm bảo tính thẩm mĩ nghệ thuật.

+ “Nụ tầm xuân” là hình ảnh được dùng để ẩn dụ cho người con gái.

+ Nhờ sử dụng biện pháp điệp mà câu 2,3 có tính nhạc, nhịp điệu và hài hòa đăng đối

- Ở ngữ liệu (2) sự lặp lại có mục đích làm nổi bật, khắc sâu tình cảnh mất sự tự do của cô gái. Nếu không có sự so sánh này thì tình thế “đã có chồng” của cô gái sẽ không được hình dung rõ ràng và sinh động được.

c, Phép điệp là biện pháp tu từ được xây dựng thông qua cách lặp lại một hay một số yếu tố diễn đạt (nhịp, vần, cụm từ, câu từ) có mục đích nhấn mạnh, diễn tả cảm xúc, ý nghĩa và có khả năng gợi ra hình tượng

2.3 ví dụ có điệp câu, điệp từ nhưng không có giá trị tu từ

- Loại điệp từ không mang màu sắc tu từ có thể thấy xuất hiện một cách phổ biến trong các văn bản

- Anh ấy nói nhiều, uống và hát nhiều

- Văn học giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về cuộc sống, văn học còn có tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn con người

- Tôi yêu vẻ đẹp cảnh vật ở Hà Giang, nhưng tôi yêu nhiều hơn hẳn là tấm lòng chân thành của người Hà Giang

Điệp từ

- Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

- Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay…

- Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm.

c, Viết đoạn văn có sử dụng phép điệp

Tiếng Việt là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt Nam. Tiếng Việt không chỉ có tác dụng truyền tải thông tin, mà hơn thế, tiếng Việt không chỉ giúp truyền tải thông điệp mà còn bao chứa trong đó thái độ và tình cảm của người nói. Ngày nay, nhiều bạn trẻ đang mải mê chạy theo những thứ tiếng nước ngoài như việc chạy theo “mốt” mà dần lãng quên đi thứ tiếng trong trẻo, gần gũi và thân thương như tiếng Việt.

II. LUYỆN TẬP VỀ PHÉP ĐỐI

Ngữ liệu 1 và 2, cách sắp xếp các từ ngữ có đặc điểm là sự phân chia một cách đều đặn các vế câu, và tạo ra sự đối ứng chỉnh

Sự phân chia 2 vế câu vừa đối ứng, cân đối, vừa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, hoặc từ loại, về mặt ý nghĩa giúp cho câu văn thêm hài hòa với nhau

b, Ở trong ngữ liệu 3, câu 2,4 đều có tồn tại phép đối. Phương thức đối từ loại:

Khuôn trăng/ nét ngài; đầy đặn/ nở nang…

- Ở ngữ liệu bốn, phép đối được xây dựng dựa trên kiểu đối thanh, đối ý

c, Phép đối trong “Hịch tướng sĩ”:

“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù.

Trong Bình Ngô đại cáo:

+ Dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế/ Gây binh kết oán, trải hai mươi năm

+ Nhân dân 4 cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phơi

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào

- Truyện Kiều

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

Râu hùm, hàm én, mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

d, Phép đối là cách để sắp xếp cụm từ, từ ngữ và câu ở vị trí cân đối nhau, tạo nên hiệu quả giống nhau một cách trái ngược nhau với mục đích gợi ra một vẻ đẹp hài hòa, hoàn chỉnh, diễn đạt nội dung nào đó.

2. Phép đối trong tục ngữ và cao dao biểu hiện sự cân đối, hài hòa, giúp việc diễn đạt ý được cô đọng, khái quát. Giúp người đọc, người nghe dễ nhớ, dễ thuộc

- Không thể dễ dàng thay thế những từ ngữ vì kết cấu tục ngữ rất chặt chẽ.

- Thông thường, phép đối thể hiện qua biện pháp ngôn ngữ về câu, vần, từ đi kèm, đặc biệt là biện pháp ngôn từ về câu

b, Cách nói trong tục ngữ cô đọng, hàm súc, đồng thời nhờ sự hỗ trợ tích cực từ phép đối mà giúp cho tục ngữ dễ nhớ và dễ dàng lưu truyền hơn

3. Kiểu đối về nghĩa: Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm

- Đối về thanh: ăn cây nào, rào cây ấy.

- Đối từ loại: Chó treo mèo đậy, Trong chán ngoài thèm

- Kiểu đối giữa các câu:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)