Trang chủ > Lớp 10 > Soạn Văn 10 (hay nhất) > Phương pháp thuyết minh (trang 51 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Phương pháp thuyết minh (trang 51 sgk Ngữ văn 10 tập 1)

Soạn bài: Phương pháp thuyết minh

I. Tầm quan trọng của phương pháp thuyết minh

+ Đảm bảo tính chuẩn xác về đối tượng một cách chính xác, trung thực, khách quan

+ Nội dung: hấp dẫn, chuẩn xác, sinh động

+ Trình tự thuyết minh cần phải phù hợp, khoa học, nhất quán theo thời gian, không gian, sự việc

+ Ngoài tri thức cần phải có phương pháp thuyết minh hợp lý

- Mối quan hệ giữa các mục đích và phương pháp thuyết minh

+ Phương pháp thuyết minh: hệ thống cách thức người thuyết minh dùng để đạt mục đích mình đặt ra

+ Không có mục đích, nhu cầu thuyết minh để sử dụng mong đạt, mục đích để tìm phương pháp

- Nhu cầu thuyết minh: không thể thỏa mãn, mục đích thuyết minh không thể đạt được nếu như người thuyết minh không sử dụng phương pháp phù hợp

→ Phương pháp và mục đích thuyết minh không thể tách rời nhau

II. Một số phương pháp thuyết minh

1. Ôn tập

- Đoạn văn 1: Phương pháp sử dụng số liệu, nêu ví dụ. Ví dụ có kèm theo với bình luận, phân loại, nhấn mạnh vào ý Trần Quốc Tuấn muốn tiến cử người tài giỏi cho đất nước.

- Đoạn 2: Phương pháp thuyết minh, nêu định nghĩa kết hợp với phân tích

- Đoạn 3: Phương pháp phương pháp so sánh kết hợp với sử dụng số liệu. Số liệu mới mẻ, cấu tạo tế bào của con người được thuyết minh đan xen với các so sánh hấp dẫn tạo ra sự thuyết phục đối với người nghe

- Đoạn 4: Phương pháp phân tích. Miêu tả lại những vật dụng, cách thức chơi trò hát trống quân

2. Các phương pháp thuyết minh

a, Thuyết minh bằng chú thích

Câu “Ba –sô là bút danh” không dùng phương pháp định nghĩa, không đặt Ba-sô vào một loại nào đó lớn hơn, không chỉ ra các yếu tố nói lên đúng bản chất, đặc điểm của nhà văn này

Phương pháp định nghĩa và chú thích:

- Giống: đều có cấu trúc A là B

- Khác nhau: - Phương pháp định nghĩa đòi hỏi sự chính xác, tính khoa học (yếu tố B cần phải đạt được 2 yếu tố: đặt đối tượng cần định nghĩa vào loại lớn hơn; chỉ ra yếu tố nói chính xác đặc điểm, bản chất của đối tượng đó để dễ phân biệt với các đối tượng cùng loại.

+ Phương pháp chú thích: sử dụng dễ, mềm dẻo, linh hoạt hơn

b, Thuyết minh bằng phương pháp giảng giải nguyên nhân- kết quả

Đoạn trích thuyết minh nguồn gốc bút danh Ba-sô và niềm say mê của ông (được thuyết minh chủ yếu)

→ Phương pháp thể hiện mối quan hệ nhân quả, dù nguyên nhân được trình bày có dài hơn nhưng cuối cùng nội dung thông báo chính vẫn là kết quả

- Niềm say mê cây chuối chính là nguyên nhân dẫn tới việc lấy bút danh Ba-sô

- Đoạn trích được trình bày một cách hợp lí, hấp dẫn vì người viết cần dùng phương pháp thuyết minh thích hợp với đối tượng thuyết minh → hình ảnh hiện lên một cách hấp dẫn hơn, sinh động hơn

III. Yêu cầu đối với việc sử dụng phương pháp thuyết minh

Sử dụng phương pháp thuyết minh do mục đích thuyết minh quyết định

- Phương pháp thuyết minh cần tạo ra được sự hứng thú, hấp dẫn đối với người đọc, người nghe

LUYỆN TẬP

Bài 1:

Phương pháp chú thích: Hoa lan vốn được người phương Đông xem là “Loài hoa vương giả”… là nữ hoàng của các loài hoa.

- Phương pháp phân tích, giải thích: “Họ lan được chia thành 2 nhóm: nhóm phong lan…lớp thảm mục”

- Phương pháp đưa ra số liệu “Chỉ riêng mười loài của chi lan Hài Vệ nữ đã cho thấy sự phong phú và đa dạng của hoa, của lá về màu sắc, hình dáng

→ Ngoài ra, tác giả còn sử dụng yếu tố miêu tả hấp dẫn: “Cánh môi cong lượn như gót hài, cánh hoa trong mãnh…đang bay lượn”

→ Đoạn trích đã cung cấp vốn tri thức, hiểu biết về hoa lan, loài hoa được nhiều người ưa chuộng. Người viết cần phải có hiểu biết thật khoa học, chuẩn xác, khách quan

- Tác giả phối kết hợp các loại phương pháp thuyết minh: phân loại, liệt kê, chú thích, nêu ví dụ…

Bài 2:

Giới thiệu về nghề thủ công truyền thống của đất nước ta: làm gốm, thêu, trồng lúa, nuôi tằm, dệt, may…

Lựa chọn ngành nghề làm gốm để thuyết minh:

- Lịch sử hình thành

+ Dưới thời nhà Lý, ba vị Thái học sinh là Đào Trí Tiến, Lưu Phương Tú, Hứa Vinh Kiều được cử đi sứ Bắc Tống

Sau chuyến đi sứ cả 3 ông thăm, học được nhiều kỹ thuật đem về truyền bá cho dân chúng

+ Nghề gốm Bát Tràng đã bắt đầu xuất hiện từ thời nhà Lý, tương ứng với thời Bắc Tống (trước năm 1127)

- Qúa trình sản xuất gốm

Đất sét được lấy từ trong làng, được mang về ngâm trong cái bể chứa nước (“bể đánh” và “bể lắng” sử dụng ngâm đất sét khô vào khoảng 3- 4 tháng)

+ Sau khi loại bỏ những tạp chất, đất thì đất sét được đưa sang “bể phơi” trong thời gian 3- 4 ngày, rồi sau đó được chuyển qua “bể ủ”

- Bước 2: sửa hàng, nặn cốt, phơi khô sản phẩm

Bước 2: quét men, vẽ hình ảnh, chất lượng và thẩm mĩ của gốm phụ thuộc vào lớp men (men thô, men chảy, men rạn, men trơn, men lam)

Công đoạn cuối cùng là cho gốm vào lò: lò hình hộp, lò bầu, lò éch và lò ga

Hình thành thương hiệu

Có nhiều làng nghề gốm làm ra nhiều sản phẩm đẹp, nổi tiếng được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài