Thơ Hai-kư của Ba-sô (trang 157 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Câu 1:
Bài thơ 1:
Nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là To-ky-o ngày nay):
- Mười mùa sương xa quên, mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E- đô
- Mười mùa sương gợi sự thương nhớ của người xa quê
- Tình yêu quê hương đất nước hòa quyện với nhau
Bài thơ 2:
Kyoto nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666- 1672), ông chuyển đến Ê-đô
- 20 năm sau quay trở lại Kyoto nghe thấy tiếng chim đỗ quyên hót đã gợi cho Ba-sô cảm hứng sáng tác bài thơ
- Bài thơ gợi nên sự hoài cảm qua tiếng hót của chim đỗ quyên, loài chim báo mùa, gợi lên những kỉ niệm tuổi trẻ
- Đó chính là tiếng lòng da diết đan xen lẫn buồn, vui và mơ hồ về một thời xa xăm
→ Thơ của Ba-sô đem lại những ấn tượng đầy lãng mạn, gợi tả nỗi nhớ và hoài cảm
Câu 2:
Bài thơ 3:
Một mớ tóc bạc là di vật duy nhất còn lại của mẹ, cầm trên tay mà Ba- sô rưng rưng nước mắt
+ Lòng thương cảm, xót xa và trống trải khi mẹ không còn trên đời
+ Hình ảnh “làn sương thu” mơ hồ gợi lên nỗi buồn trống trải bởi công ơn sinh thành và dưỡng dục
→ Tình mẫu tử thiêng liêng khiến người đọc cảm động
Bài thơ 4:
Bài thơ trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt: Ba sô kể lại câu chuyện từng đi ngang qua cánh rừng và bỗng nghe thấy tiếng vượn hú, tiếng kêu ấy đã khiến ông liên tưởng tới tiếng khóc của em bé bỏ rơi trong rừng
- Bài thơ gợi nhớ lại những năm tháng đầy đau thương của nước Nhật: những năm mất mùa, đói kém, có những nhà còn không nuôi nổi con nên phải mang vào rừng bỏ
- Âm thanh của tiếng vượn kêu gợi nhớ tới tiếng khóc của trẻ con, một nỗi buồn đau của con người.
- Gió mùa thu cũng gợi lên sự mơ hồ, mờ ảo, nhiều nỗi đau thương, điều đó đã gợi ra sự đồng cảm của người đọc
Câu 3:
Bài thơ này Ba-sô sáng tác khi đang trên đường du hành ngang qua rừng thấy kỉ nhỏ run rẩy trong cơn mưa mùa đông
- Nhà thơ mong muốn giúp chú khỉ nên thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh.
- Hình ảnh chú khỉ con đơn độc trong tiết trời mưa lạnh đã gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, những em bé nghèo bị bỏ vào rừng co ro trong cơn lạnh
→ Bài thơ là tình yêu thương sâu sắc của nhà thơ đối với kiếp người nghèo khổ.
Câu 4:
- Bài thơ đã miêu tả cảnh mùa xuân, mùa hoa anh đào nở.
Tác giả đã liên tưởng cánh hoa đào mỏng manh như giấy, có màu phớt hồng, lả tả bay, rơi rụng xuống hồ khiến mặt nước gợn sóng
- Hình ảnh đẹp đẽ nhưng cũng chứa đựng triết lí sâu sắc: sự tương giao giữa mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới có sự tác động qua lại lẫn nhau, không thể nào tồn tại độc lập
Về bài 7:
- Sự im lặng một cách huyền diệu, trong cảnh u tịch lại có tiếng ve ngâm như thấm sâu vào đá
- Một sự liên tưởng độc đáo, không hề thậm xưng bởi vì cảnh u huyền đó là có thực và con người chính là chìm vào thế giới suy tưởng của bản thân.
Câu 5:
Khát vọng được sống, khát vọng được lãng du của nhà thơ Ba-sô được bộc lộ trong bài 8
- Ba- sô không hề bi lụy trước cái chết
+ Cuộc đời Ba-sô đã phiêu bạt, lang thang khắp mọi nơi
+ Khi sắp từ giã cõi đời ông vẫn là một người có tâm hồn lãng du
+ Gợi tâm hồn Ba-sô lang thang trên các cánh đồng hoang vu.
→ Bài thơ giống như một bản tâm nguyện của tác giả muốn được phiêu du
Câu 6:
Quý ngữ và cảm thức thẩm mĩ về cái đơn sơ, vắng lặng, u huyền
- Qúy ngữ chính là “cánh hoa đào” gợi lên:
+ Mùa xuân tươi đẹp
+ Cảm thức thẩm mĩ đơn sơ trong bài thơ thứ 2 - cư này chính là triết lí sâu sắc đúc rút được bức tranh mùa xuân tươi đẹp
- Bài thơ 7 quý ngữ “tiếng ve ngâm”: âm thanh vang vọng của mùa hè, cảm thức thẩm mĩ nằm ở sự tịch mịch, u huyền nhưng cũng gợi nên sự thẩm thấu vào kẽ lá
- Quý ngữ bài 8: “những cái đồng hoang vu”, những cánh đồng gợi sự liên tưởng đến giấc mơ tuổi già xế bóng, khi tiếng chim kêu đã như gợi lên một mùa thu hiu quạnh, cảm thức lắng sâu trong sự vắng lặng đó.