Soạn bài: Thúy Kiều báo ân báo oán (Trích Truyện Kiều) (trang 108 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1)
Bố cục của đoạn trích gồm 2 phần:
- Phần 1 (mười hai câu thơ đầu): Cảnh Thúy Kiều báo ân cho Thúc Sinh.
- Phần 2 (hai mươi hai câu thơ còn lại): Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư.
Soạn bài
Câu 1 (trang 108 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1):
- Từ lời của Kiều nói với Thúc Sinh có thể thấy kiều rất trân trọng việc Thúc Sinh chuộc nàng khỏi lầu xanh. Nàng gọi Thúc Sinh là "Người cũ" mang sắc thái thân mật, gần gũi, rồi lại gọi là "cố nhân" mang sắc thái trang trọng.
- Khi trả ơn Thúc Sinh, Kiều lại nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây ra cho Kiều đang còn quá xót xa.
- Sự khác nhau trong ngôn ngữ của Kiều nói với Thúc Sinh, Kiều dùng nhiều từ điển cố "Sâm Thương" cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn và trân trọng của Kiều đối với Thúc Sinh. Còn lúc nói về Hoạn Thư, ngôn ngữ của Kiều lại hết sức bình dị. Nàng dùng những thành ngữ quen thuộc "Kẻ cắp bà già gặp nhau", "Kiến bỏ miệng chén" với những từ Việt dễ hiểu: hành động trừng phạt kẻ ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Câu 2 (trang 108):
- Những lời đầu tiên của Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu mỉa mai, đay nghiến.
- Với giọng điệu đầy vẻ châm biếm, mỉa mái, Kiều gọi Hoạn Thư là "tiểu thư", cẩn thận báo cho mụ ta biết về "luật nhân quả" ở đời "càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều".
Câu 3 (trang 108):
- Trước thái độ của Kiều, Hoạn thư đã đưa ra những lí lẽ hết sức thuyết phục. Không những khẳng định "ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà" mà Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã "làm ơn" cho Thuý Kiều. Hoạn Thư đã đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.
- Qua lời lẽ đối đáp của Hoạn Thư ta thấy được Hoạn Thư là người "sâu sắc nước đời", không những làm "chàng Thúc phải ra người bó tay" mà chính Kiều cũng ở vào hoàn cảnh khó xử: "Tha ra thì cùng may đời- Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen".
- Tuy nhiên, Kiều đã vượt qua hoàn cảnh khó xử bằng tấm lòng nhân hậu, tha cho Hoạn Thư.
Câu 4 (trang 108):
- Thúy Kiều đã tha bổng cho Hoạn Thư bởi vì những lí lẽ mà mụ ta đưa ra đã thuyết phục được Kiều. Hơn nữa Kiều là một người con gái rất hiểu lí lẽ và có tấm lòng thương người.
- Hành động đó của Kiều có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lôgic của tác phẩm. Qua đó mới khẳng định được phẩm chất tốt đẹp của nàng Kiều.
Câu 5 (trang 108): Phân tích Thúy Kiều và Hoạn thư qua đoạn trích
- Qua đoạn trích có thể thấy Thúy Kiều là người trọng tình, trọng nghĩa. Những ai đã giúp đỡ nàng, nàng luôn nhớ tới và đền ơn xứng đáng. Còn với Hoạn Thư, nàng kiên quyết trừng phạt. Nhưng trước thái độ khôn ngoan kêu ca "đến mực, phải lời", Kiều đã tha bổng. Kiều tha cho Hoạn Thư cho thấy nàng là người không hẹp hòi, không nhỏ nhen và không cố chấp. Sự rộng lượng của nàng càng làm cho người ta, kể cả Hoạn Thư – kẻ thù, phải tâm phục, khẩu phục. Hoạn Thư là một người phụ nữ nham hiểm và hết mực khôn ngoan.
Luyện tập
* Phân tích những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách của Thúy Kiều và Hoạn Thư.
Thúy Kiều:
- Là một người yêu, ghét rõ ràng, lúc thì rất ôn hòa, lúc lại rất cương quyết, cứng rắn: Có ơn thì trả có nợ thì báo.
- Mọi hành động của Thúy Kiều đều dựa trên nguyên tắc đạo lý
Hoạn Thư: Từ đầu đến cuối Hoạn Thư đều được miêu tả là người khôn ngoan, mưu kế. Dù run sợ trước lời buộc tội của Kiều nhưng vẫn khôn khéo đưa ra được lời biện minh nhằm thoát tội cho bản thân, lợi dụng lòng đồng cảm của Thúy Kiều.
Bài tiếp: Soạn bài: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (trang 115 Ngữ Văn lớp 9 Tập 1)