Soạn bài: Quan Âm Thị Kính (trang 120 Ngữ Văn 7 Tập 2)
Bố cục của trích đoạn Quan Âm Thị Kính gồm 3 phần:
- Phần 1 (từ đầu.... đế thấy sự bất thường): Hạnh phúc gia đình
- Phần 2 (tiếp... Đi! Đi vào đi): Nỗi oan giết chồng
- Phần 3 (còn lại): Thị Kính quyết đi tu
Tóm tắt nội dung của đoạn trích
Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
Hướng dẫn soạn bài
Câu 3 (trang 120 Ngữ Văn 7 Tập 2):
- Trích đoạn Nỗi oan hại chồng có 5 nhân vật đó là: Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Thị Kính, Mãng ông.
- Hai nhân vật chính thể hiện xung đột kịch là: Sùng bà và Thị Kính.
- Sùng bà thuộc loại nhân vật "mụ ác" - đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến; Thị Kính là nhân vật nữ chính - đại diện cho phụ nữ lao động, người dân thường.
Câu 4 (trang 120):
- Khung cảnh đầu đọan trích là cảnh sinh hoạt gia đình ấm cúng tuy không phổ biến với nhân dân như cảnh thiếp nón chàng tơi, chồng cày vợ cấy, nhưng cũng là ước mơ về hạnh phúc gia đình.
- Qua lời nói và cử chỉ ở đây có thể thấy Thị Kính rất ân cần, dịu dàng với chồng, thương yêu chồng, tình cảm với chồng rất tự nhiên chân thật.
Câu 5 (trang 120): Liệt kê và nêu nhận xét ngôn ngữ, hành động của Sùng bà với Thị Kính:
- Hành động của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn: dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính ngửa mặt lên, không cho Thị Kính phân bua, dúi tay đẩy Thị Kính khụy xuống.
- Ngôn ngữ của Sùng bà toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, xỉ vả, trút cho Thị Kính đủ tội, không cần hỏi rõ sự tình, không cần biết phải trái vu oan cho Thị Kính giết chồng:
+ Giống nhà bà đây giống phượng giống công/ Tuồng bay mèo mả gà đồng
+ Nhà bà đây cao môn lệnh tộc/ Mày là con nhà cua ốc
+ Trứng rồng lại nở ra rồng/ Liu điu lại nở ra dòng liu điu
→ Lời nói của Sùng bà phản ánh quan hệ giai cấp, bộc lộ thái độ tàn nhẫn phũ phàng giọng khinh miệt người nghèo, mâu thuẫn giai cấp trong vấn đề hôn nhân bộc lộ sâu sắc
Câu 6 (trang 120):
- Trong đoạn trích này Thị Kính có 5 lần kêu oan. Trong đó có bốn lần kêu oan hướng về mẹ chồng và chồng nhưng đều vô ích:
+ Giời ơi! Mẹ ơi oan cho con lắm mẹ ơi!
+ Oan cho con lắm mẹ ơi!
+ Oan cho thiếp lắm chàng ơi!
+ Mẹ xét tình cho con, oan cho con lắm mẹ ơi!
- Lần thứ 5 nàng kêu oan với cha đẻ thì nhận được sự cảm thông nhưng đó là sự cảm thông trong đau khổ và bất lực, Thị Kính vẫn bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
Câu 7 (trang 120):
- Trước khi đuổi Thị Kính ra khỏi nhà Sùng ông, Sùng bà còn làm một điều tàn ác là: Dựng lên một vở kịch lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu thực ra bắt ông sang nhận con gái về, làm cho cha con Mãng ông nhục nhã, thậm chí dùng cả hành động vũ phu.
- Đây cũng là chỗ xung đột kịch tập trung cao nhất vì sự bố trí dồn dập xô đẩy kéo dài những tình tiết trên sân khấu mang nhiều ý nghĩa:
+ Trên sân khấu chỉ còn hai cha con lẻ loi
+ Thị Kính bị đẩy vào chỗ cực điểm của nỗi đau: gia đình chồng nghi oan, hạnh phúc gia đình tan vỡ, cha bị hành hạ khinh bỉ.
+ Cảnh cha con ôm nhau khóc thể hiện sự oan khuất trong bất lực
Câu 8 (trang 120):
- Tâm trạng Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà:
+ Đau đớn vì bằng chứng của tình chung thủy bây giờ là dấu vết của sự thất tiết
+ Thị Kính đang bơ vơ trước cái vô định của cuộc đời, không biết đi về đâu
- Việc Thị Kính trá hình nam tử đi tu hành có ý nghĩa giải thoát. Con đường ấy có hai mặt trái ngược nhau:
+ Mặt tích cực: muốn sống ở đời để tỏ rõ con người đoan chính
+ Mặt tiêu cực: cho rằng mình khổ do số kiếp của mình như vậy nên đã tìm đến cửa phật để tu tâm.
- Nhưng đây không phải là con đường giúp nhân vật thoát khỏi đau khổ trong xã hội cũ vì trong thời đại này người phụ nữ chưa đủ bản lĩnh vượt lên hoàn cảnh vẫn cam chịu nhẫn nhục, Thị Kính có đấu tranh nhưng chỉ dừng ở những lời trách móc số phận và ước muốn nhật nguyệt sáng soi.
Luyện tập
Bài 1 (trang 121): Tóm tắt đoạn trích Nỗi oan hại chồng
Thiện Sĩ ngồi đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu chồng mọc ngược, cho là không tốt, định lấy dao khâu xén đi. Ngờ đâu Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy hô hoán lên. Sùng ông, Sùng bà vốn không ưa Thị Kính, thấy thế bèn vu cho Thị Kính tội có ý giết chồng. Rồi mặc cho Thị Kính tha hồ van xin, Sùng ông, Sùng bà đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Sùng ông gọi Mãng ông (bố Thị Kính) sang. Sau khi làm cho hai bố con phải nhục nhã, khổ sở, hai vợ chồng bỏ vào nhà trong để mặc hai bố con ôm nhau than khóc rồi đưa nhau về.
Bài 2 (trang 121): Chủ đề của đoạn trích Nỗi oan hại chồng:
+ Thể hiện những phẩm chất tốt đẹp và nỗi oan bi thảm, bế tắc của Thị Kính cũng là của không ít phụ nữ trong xã hội phong kiến.
+ Phản ánh những đối lập giai cấp biểu hiện trong xung đột hôn nhân và gia đình thời phong kiến
- Thành ngữ "Oan Thị Kính" - Nỗi oan hại chồng dùng để nói về những nỗi oan ức quá mức, cùng cực không thể nào giãi bày được.
Bài trước: Soạn bài: Tìm hiểu chung về văn bản hành chính (trang 107 SGK Ngữ văn 7 tập 2) Bài tiếp: Soạn bài: Dấu chấm lửng và dấu chấm phẩy (trang 123 Ngữ Văn 7 Tập 2)