Trang chủ > Lớp 8 > Soạn Văn 8 (siêu ngắn) > Soạn bài: Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (trang 147 Ngữ văn 8)

Soạn bài: Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (trang 147 Ngữ văn 8)

Bố cục

- 2 câu đề: khí phách hiên ngang, bất khuất của nhà chí sĩ khi lam vào cảnh tù ngục.

- 2 câu thực: tâm sự về cuộc đời đầy sóng gió.

- 2 câu luận: hình tượng của người anh hùng.

Soạn bài

Câu 1:

Phong thái và khí phách của chí sĩ khi lâm vào ngục qua câu thơ 1 và câu thơ 2:

- Phong thái hiên ngang, lạc quan: Dù phải ngồi tù nhưng tác giả đã khẳng định, bản thân mình vẫn “hào kiệt”, “phong lưu”

- Khí phách kiên cường, ngạo nghễ: xem chốn ngục tù chỉ là chốn dừng chân khi mệt mỏi, rồi sẽ tiếp tục tung hoành, chứ nhà tù không thể giam giữ được ý chí và tinh thần của nhà thơ.

Câu 2:

- Sự thay đổi giọng điệu trong câu thơ 3-4 so với câu 1-2: giọng điệu trầm xuống, âm hưởng suy tư, trầm lắng không còn sự hào sảng, lạc quan như ở phần trên. Vì: suy ngẫm lại chặng đường cách mạng của bản thân mình, suy nghĩ về sự nghiệp cứu nước vẫn còn dang dở mà bản thân lại phải ở tù.

- Lời tâm sự đã thể hiện:

+ Cuộc đời hiến dâng cho cách mạng. Con đường cứu nước phiêu bạt, gian lao, hiểm nguy làm “khách không nhà”, “người có tội”

+ Hình tượng “người có tội” đó hiện lên một cách kì vĩ, cao đẹp giữa “năm châu”, “bốn bể".

Câu 3:

- Ý nghĩa của cặp câu 5-6: Ước vọng trị nước cứu dân, muốn làm cho thiên hạ được thái bình, sống trong cảnh an vui “tan cuộc oán thù”.

- Cách nói khoa trương có tác dụng: Cho thấy khẩu khí và ước vọng cao đẹp của người chí sỹ yêu nước.

Câu 4:

Cảm nhận về 2 câu thơ cuối: 2 câu thơ cuối đã khẳng định rõ ý chí bền bỉ và khí phách của bậc hào kiệt.

- Từ “còn” bộc lộ niềm tin sắt đá rằng con đường cách mạng vẫn còn tiếp tục.

- “bao nhiêu nguy hiểm có sợ gì đâu”: tinh thần lạc quan và lòng dũng cảm của người anh hùng.

Luyện tập

- Bài thơ "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác" được viết bằng thể thất ngôn bát cú Đường luật.

+ Chữ thứ 2 của câu 1 là chữ “là” là thanh bằng, như vậy bài thơ này được viết dựa trên luật bằng.

+ Chữ “lưu” ở cuối câu 1 là thanh bằng, sử dụng để gieo vần. Đây là căn cứ để xác định bài thơ có vần bằng. Toàn bộ bài thơ có 5 chữ gieo được vần bằng: “lưu – tù – châu – thù – đâu”