Trang chủ > Lớp 9 > Soạn Văn 9 (ngắn nhất) > Mây và sóng - Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2

Mây và sóng - Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2

Bố cục bài thơ:

- Phần 1 (từ đầu... xanh thẳm): Kể lại cuộc trò chuyện với những người trên mây.

- Phần 2 (còn lại): Kể lại cuộc trò chuyện những người trong sóng

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (Trang 88 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2):

a. Giữa hai phần của bài thơ:

- Giống nhau: về kết cấu, số dòng thơ, cách xây dựng hình ảnh đều theo trình tự kể lại lời mời gọi, lời từ chối và sự tưởng tượng sáng tạo trò chơi.

- Khác về ý và lời thơ giữa phần 1 – phần 2:

+ Đối tượng: mây – sóng.

+ Trò chơi: con là mây và mẹ là trăng – con là sóng và mẹ là bến bờ kì lạ.

+ Không gian: trên trời – dưới biển.

→ Tác dụng: Tạo sự trùng điệp, nâng lên, làm nổi bật chủ đề - Tình mẫu tử.

b. Phần thứ hai cho ý thơ đầy đủ hơn, tác động trùng điệp, hô ứng, khẳng định những tình cảm đã được diễn tả trong thử thách thứ nhất.

Câu 2 (Trang 88 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2):

Dòng thơ “Con hỏi: ... ” được đặt sau mỗi lời mời gọi và đặt trước lời đáp của những người trên mây và người trong sóng. Chi tiết này thể tính xác thực, sức hấp dẫn của trò chơi. Con trẻ nào mà chẳng ham chơi. Khi nghe những lời mời gọi, chú bé lần nào cũng tỏ ra băn khoăn. Dù vậy, tình yêu mẹ vẫn luôn chiến thắng để chú bé từ chối những lời mời gọi đó.

Câu 3 (Trang 88 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2):

So sánh những cuộc vui chơi của người “trên mây” và người “trong sóng”:

Đó đều là những cuộc vui kéo dài từ sáng sớm đến chiều muộn, chơi với thiên nhiên, chơi với thế giới diệu kì, rực rỡ sắc màu và đều là những trò chơi vô cùng thú vị.

→ Nói lên sức mạnh của tình mẫu tử. Tấm lòng mẹ bát ngát như “bến bờ kì lạ”, tình mẹ con gắn bó như mây với trăng, biển với bờ, tình cảm ấy đã đạt tới tầm cỡ vũ trụ, thiêng liêng, bất diệt.

Câu 4 (Trang 88 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2):

Thành công nghệ thuật của bài thơ trong việc xây dựng hình ảnh thiên nhiên:

Mây, trăng, sóng, bờ, bầu trời... vốn đã là những hình ảnh thiên nhiên vô cùng thơ mộng, chúng đều tạo ra do trí tưởng tượng của em bé, nên càng lung linh kì ảo. Đó cũng là những hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống rộn rã, nhiều cám dỗ xung quanh.

Câu 5 (Trang 88 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2):

Ý nghĩa câu thơ “Con lăn, lăn, lăn mãi... ở chốn nào”: Lòng mẹ mênh mông luôn sẵn sàng chào đón con. “Mẹ con ta” ở khắp mọi nơi, không ai chia rời được cũng là tình mẫu tử ở khắp mọi nơi, thiêng liêng, bất diệt.

Câu 6 (Trang 88 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 2):

Ngoài ý nghĩa ngợi ca tình mẫu tử, bài thơ còn gợi cho ta suy ngẫm:

- Cuộc đời muôn vàn cám dỗ, muốn khước từ chúng cần phải có điểm tựa chắc chắn, điểm tựa ấy chính là tình cảm gia đình, tình mẫu tử.

- Hạnh phúc không phải phải là những gì xa xôi, bí ẩn, nó ở xung quanh ta, do chúng ta tạo nên.