Trang chủ
> Lớp 9
> Soạn Văn 9 (ngắn nhất)
> Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận - Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 1
Luyện tập viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận - Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 1
I. Thực hành tìm hiểu yếu tố nghị luận trong đoạn văn tự sự
Câu 2 (Trang 160 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 1):
- Yếu tố nghị luận được thể hiện trong các câu văn:
+ “Những điều viết lên cát sẽ mau chóng xoá nhoà theo thời gian, nhưng không ai có thể xoá nhoà những điều tốt đẹp đã được ghi tạc trên đá, trong lòng người”.
+ “Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá”.
→ Làm cho văn bản có mối liên kết giữa các sự kiện với các tư tưởng chủ đề, làm nổi bật được nội dung tư tưởng của văn bản.
II. Thực hành viết đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận
Câu 1 (Trang 161 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 1):
Buổi sinh hoạt ngày hôm ấy luôn hiện về trong kí ức khiến em không bao giờ quên được. Nguyên do là vì giờ ra chơi ngày hôm đó hai bạn Huy và Nam đã có cuộc ẩu đả dữ dội. Lí do là vì Nam đã vô tình quên nộp bài kiểm tra cho bạn Thắng. Giờ sinh hoạt mọi ánh mắt đều đổ dồn về Nam bày tỏ thái độ bất bình và rất nhiều người đã lên tiếng buộc tội. Nam cúi đầu lặng im nghe mọi người phán xét. Em đã đứng dậy nêu ý kiến của mình, ngay từ câu đầu tiên em đã khiến cho tất cả mọi người bất ngờ: “Nam không phải là người có lỗi, Nam là người bạn tốt”. Mọi người chăm chú lắng nghe. Tâm trạng của em lúc đó thật hồi hộp, em tự trấn bản thân: Hãy bình tĩnh, bởi lẽ mình đang bảo vệ cho lẽ phải, đang minh oan cho một người bạn tốt thì không có gì run phải sợ”. Em bắt đầu lập luận: Thứ nhất, trong lớp từ trước tới giờ Nam chưa từng gây gổ với ai. Thứ hai, việc làm đó là do vô tình. Thứ ba, sau khi sự việc xảy ra Nam đã xin lỗi Thắng, và giúp Thắng nộp lại bài. Chúng ta không thể buộc tội một người bạn như thế. Em vừa dứt lời tiếng vỗ tay vang lên như sấm, kèm theo là những lời tán thưởng: “Đồng ý! Đồng ý! ” Ánh mắt Nam nhìn em như muốn nói lời cảm ơn.
Câu 2 (Trang 161 Sách giáo khoa Ngữ Văn 9 Tập 1):
Bà tôi, một người hiền lành, đôn hậu, luôn thương yêu tôi hết lòng và cũng là người đặc biệt quan trọng đối với tôi. Bà tôi thường dành thời gian dảnh dỗi để chỉ tôi học bài. Có lần khi đang dạy tôi làm phép chia, bà nói: “Trong bốn phép tính, phép chia là khó nhất. Có những người trưởng thành, thành đạt mà vẫn không làm được một phép tính chia bình thường”. Tôi cứ suy nghĩ mãi về câu nói đó... Mỗi khi có đồ ăn, bà thường để dành cho nhà tôi và chia cho hàng xóm xung quanh. Có người bảo bà dại, nhưng bà thường hay nói với tôi: “Biết sẻ chia với mọi người cũng là một cách cộng thêm niềm vui, nhân lên hạnh phúc cho mình và trừ đi những lo âu trong lòng. Cháu thấy không, phép tính chia thật kì diệu”. Phép tính chia của bà chỉ đơn giản vậy thôi nhưng khiến cho tình làng nghĩa xóm gắn bó, thân thiết hơn. Phép tính chia của bà là chia đau khổ bất hạnh, chia niềm hạnh phúc và chia cả sự cảm thông với mọi người chung quanh đã cho tôi bài học ý nghĩa về cuộc sống nghĩa tình. Có phải vì thế mà mỗi khi ở bên bà, tôi lại cảm thấy lòng bình yên? Thì ra phép chia còn có thể khiến con người ta trở nên cao đẹp! Bài học đó tôi luôn giữ bên mình, coi như hành trang bước vào đời. Bà luôn là người tuyệt vời trong tôi.