Trang chủ > Lớp 7 > Soạn Văn 7 (hay nhất) > Quan Âm Thị Kính - Sách giáo khoa Ngữ Văn 7

Quan Âm Thị Kính - Sách giáo khoa Ngữ Văn 7

Bố cục văn bản:
+ - Phần 1 (từ đầu đến “thiếp xén tày một mực”): Thị Kính xén chiếc râu mọc ngược dưới cằm cho chồng.
+ - Phần 2 (tiếp theo đến “về cùng cha con ơi”): Nhà chồng nhất quyết vu cho Thị Kính giết chồng, nàng chẳng thể minh oan, cùng cha là Mãng ông trở về nhà.
+ - Phần 3 (đoạn còn lại): Thị Kính giã từ cha mẹ, quyết định cải trang thành nam nhi tu hành.
Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (Trang 120 Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 2)
Tóm tắt
Thị Kính là một người con gái nết na, xinh đẹp nhà Mãng Ông được gả cho Thiện Sĩ, học trò dòng dõi thi thư. Trong một đêm nọ, Thị Kính đang vá áo nhìn chồng ngủ thì thấy sợi dâu mọc ngược, sẵn con dao trong tay nàng định xén đi thì Thiện Sĩ thức giấc gạt tay vợ và hét toáng lên. Mẹ chồng vào nghe lời kể nghi oan cho Thị Kính là âm mưu giết chồng rồi mắng chửi và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Thị Kính cải trang nam, xin vào chùa tu được đặt là Kính Tâm
Bấy giờ trong làng có cô Thị Mầu nổi tiếng là lẳng lơ dụ dỗ Kính Tâm không được thì tằng tịu với anh điền trong nhà. Thị Mầu mang thai, bị làng bắt phạt nên khai liều là của Kính Tâm. Thị Mầu sinh con ra mang tới chùa đổ vạ, Thị Kính suốt 3 năm trời ròng rã xin sữa nuôi con, cuối cùng thân tàn lực kiệt, viết thư để lại cho cha mẹ rồi chết đi. Cuối cùng mọi người mới biết Kính Tâm là nữ, bèn lập đàn tẩy oan cho nàng. Nàng hóa thành Phật bà Quan âm Thị Kính.
Câu 2 (Trang 103 Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 2)
Đọc kĩ đoạn trích và xem chú thích trong Sách giáo khoa.
Câu 3 (Trang 103 Sách giáo khoa Ngữ Văn 7 Tập 2)
Trong đoạn trích có năm nhân vật: Thị Kính, Thiện Sĩ, Sùng ông, Sùng bà, Mãng ông.
- Nhân vật Thị Kính và Sùng bà là hai nhân vật tạo nên xung đột chính của đoạn trích:
+ Sùng bà: là kiểu nhân vật mụ ác, đại diện cho giai cấp thống trị dưới thời phong kiến
+ Thị Kính: nhân vật nữ chính, đại diện cho những người dân thường, vốn chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội cũ
Câu 4 (Trang 120 Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 2)
Khung cảnh đầu đoạn trích là cảnh Thị Kính ngồi khâu, Thiện Sĩ đọc sách
→ Gợi lên không khí giá đình đầm ấm, hạnh phúc
- Cử chỉ và lời nói của nhân vật Thị Kính:
+ Thị Kính dọn lại kỉ rồi quạt cho chồng ngủ
+ Thị Kính chăm chú quan sát chồng ngủ và phát hiện ra sợi râu mọc ngược
+ Thị Kính lấy dao toan xén chiếc râu đó đi
→ Hành động của Thị Kính diễn ra hết sức tự nhiên, chứng tỏ tình cảm chân thành và tình yêu dành cho chồng
Câu 5 (Trang 120 Sách giáo khoa Ngữ Văn 7 Tập 2)
Qua hành động và ngôn ngữ Sùng bà là hiện lên là một kẻ kẻ tàn nhẫn, hiểm độc, xem thường người lao động hiền lành:
- Hành động:
+ Dúi đầu Thị Kính xuống, bắt Thị Kính phải ngửa mặt lên (kiểu sỉ nhục người khác)
+ Buông lời chửi mắng Thị Kính, không cho nàng cơ hội thanh minh
+ Hất tay đẩy ngã Thị Kính xuống đất, nhất quyết trả Thị Kính về gia đình
- Lời nói:
+ Đay nghiến, mắng nhiếc Thị Kính
+ Lời mắng nhiếc của Sùng bà luôn nhấn mạnh đến sự đối lập về đến giai cấp, sự không “môn đăng hộ đối” giữa hai gia đình
→ Mụ Sùng là người tàn nhẫn, hiểm độc, hợm hĩnh, tự cho mình là tầng lớp trên nên bà xem thường người khác, nhất là những người lao động bình thường
Câu 6 (Trang 120 Sách giáo khoa Ngữ Văn 7 Tập 2)
Thị Kính kêu oan 5 lần
- 4 lần đầukêu oan đầu tiên kêu oan đến mẹ chồng và chồng (Oan con lắm mẹ ơi! Oan cho thiếp lắm chàng ơi! )
+ Lời kêu oan của Thị Kính không được thấu tỏ do:
+ Thiện Sĩ là kẻ nhu nhược, hèn nhát còn mụ Sùng thì hiển nhiên không muốn chấp nhận Thị Kính
- Lần thứ năm lời kêu oan của Thị Kính nhận được sự cảm thông, thấu hiểu của Mãng ông
+ Mãng ông dù biết là con gái bị oan nhưng bởi chỉ là một người nông nghèo chẳng thể giúp cho con gái
Câu 7 (Trang 120 Sách giáo khoa Ngữ Văn 7 Tập 2)
- Trước khi đuổi Thị Kính đi, mụ Sùng còn bày ra một màn kịch hiểm độc nhằm khiến cho cha con Thị Kính nhục nhã, ê chề.
+ Lừa Mãng ông sang “ăn cữ cháu” rồi vu oan cho Thị Kính “nửa đêm cầm dao giết chồng”
+ Gọi Mãng ông sang rồi dúi ngã Mãng ông để nhất quyết cự tuyệt quan hệ thông gia và bỏ vào nhà
- Hình ảnh hai cha con ôm nhau chịu oan ức, khổ đau hoàn toàn bất lực
→ Tình cảnh thống khổ của những người nông dân nghèo trước sự ác nghiệt của tầng lớp thống trị.
Câu 8 (Trang 120 Sách giáo khoa Ngữ Văn 7 Tập 2)
Tâm trạng của Thị Kính trước khi rời khỏi nhà Sùng bà nàng hát:
“Than ôi… gối lẻ loi”
- Các cặp từ đối lập lâu nay- bỗng, sắt cầm- chăn gối lẻ loi…: mang sắc thái ý nghĩa đối lập thể hiện hai trạng thái trái ngược nhau biến đổi đột ngột
+ Từ cuộc sống ấm êm hòa hợp đến tình cảnh chia lìa
→ Bị đẩy khỏi thế giới thân thuộc, người đàn bà bỗng hóa lẻ loi giữa cái vô định cuộc đời.
- Thị Kính giả trai vào tu trong chùa càng khẳng định nàng rơi vào tình cảnh bế tắc không có lối thoát
+ Quan niệm về định mệnh, cho rằng sự khổ đau là do số kiếp nên quay về cửa Phật tìm lối giải thoát, tu tâm tích đức.
Luyện tập
Bài 1 (Trang 121 Sách giáo khoa Ngữ Văn 7 Tập 2)
Tóm tắt
Thiện Sĩ ngồi đọc sách thì thiu thiu ngủ, Thị Kính ngồi khâu bên cạnh chồng nhìn thấy chiếc râu mọc ngược toan lấy dao khâu định xén đi. Thiện Sĩ chợt tỉnh dậy thì két toáng lên. Rồi mặc cho Thị Kính hết lời van xin, Sùng ông, Sùng Bà đuổi đánh Thị Kính về nhà Mãng ông. Sau khi khiến cho hai bố con Mãng ông nhục nhã, khổ sở hai vợ chồng nhà Sùng bỏ vào nhà mặc cho hai bố con ôm nhau khóc rồi đưa nhau về.
Bài 2 (Trang 121 Sách giáo khoa Ngữ Văn 7 Tập 2)
Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” cho thấy những phẩm chất tốt đẹp cùng nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người đàn bà đối lập giai cấp:
- Thành ngữ “oan Thị Kính” dùng để nói về nỗi oan khiên chẳng thể bộc bạch, thanh minh
- Mở đầu trích đoạn là khung cảnh gia đình đầm ấm, lời nói và những cử chỉ của Thị Kính làm bật lên hình ảnh một người phụ nữ
- Thị Kính rời khỏi nhà Sùng bà trong sự đau khổ và bất lực, hạnh phúc tan vỡ.
- Thị Kính giả trai đi tu, vừa để tự thanh minh vừa để thoát tục
Ý nghĩa - Nhận xét
Qua trích đoạn “Nỗi oan hại chồng”, học trò hiểu được những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc trong tác phẩm: là lời bênh vực cho những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, đồng cảm với hoàn cảnh bất hạnh, đồng thời tác phẩm phê phán gay gắt xã hội phong kiến đã đẩy người đàn bà vào tình cảnh oan khuất, bi thảm.