Trang chủ > Lớp 7 > Soạn Văn 7 (hay nhất) > Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê - Sách giáo khoa Ngữ Văn 7

Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê - Sách giáo khoa Ngữ Văn 7

* Bố cục bài thơ: gồm 2 phần
- Phần 1 (hai câu thơ đầu): những thứ thay đổi và không thay đổi của con người
- Phần 2 (2 câu thơ cuối): tâm trạng của nhà thơ khi bị coi là khách ở quê
Đọc hiểu văn bản
Câu 1 (Trang 127 Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 1)
Nhân vật trữ tình- nhà thơ trở thành khách trên chính mảnh đất quê hương của mình ngay trong ngày đầu tiên trở về
→ Đây cũng là lý do chính để tác giả sáng tác bài thơ
- Khác với Lý Bạch, khi xa quê, thương nhớ quê cũ nên tức cảnh sinh tình
Câu 2 (Trang 127 Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 1)
- Trong bài thơ có sử dụng hình thức tiểu đối:
+ Thiếu tiểu li gia > < Lão đại hồi
+ Hương âm vô cải > < Mấn mao tồi
→ Đối giữa các vế trong cùng một câu, mỗi vế nhỏ có hai bộ phận đối nhau rất hoàn chỉnh, hài hòa
- Thông qua hình thức tiểu đối này nhà thơđã tổng quát lại được sự thật ngậm ngùi, suốt cuộc đời tha hương, ra đi từ khi còn trẻ khi trở về thì đã già. Tuy vậy giọng quê vẫn không thay đổi, vẫn vẹn nguyên
- Hương âm vô cải: Giọng quê không đổi để thể hiện tấm lòng không thay đổi, nói tới phần tinh tế sâu thẳm trong con người không thay đổi.
→ Hồn quê, tình yêu quê hương trường tồn trong tâm trí nhà thơ.
Câu 3 (Trang 127 Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 1)
Phương thức biểu đạtTự sựMiêu tảBiểu cảmBiểu cảm qua miêu tảBiểu cảm qua tự sự
Câu 1XXX
Câu 2XX
Câu 4 (Trang 127 Sách giáo khoa ngữ văn 7 tập 1)
- Sự khác nhau cơ bản giữa giọng điệu biểu đạt ở câu thơ đầu và câu thơ cuối
+ Hai câu thơ đầu: giọng thơ tự sự xen lẫn một chút ngậm ngùi, chua xót của người con xa quê lâu ngày trở lại: “ Trẻ đi, già trở lại nhà/ Giọng quê không đổi sương pha mái đầu.
+ Hai câu dưới: mang giọng thơ bi hài, hóm hỉnh: sự hồn nhiên thơ ngây của trẻ nhỏ đã tạo ra hoàn cảnh trớ trêu (trở thành khách ngay trên chính quê hương của mình)
→ Cảm giác xa lạ, lạc lõng ngay trên chính mảnh đất quê hương của mình, không còn người thân thích, quen biết khiến nhân vật trữ tình ngậm ngùi, xót xa
Luyện tập
Hai bản dịch thơ của Phạm Sĩ Vĩ và Trần Trọng San
- Giống nhau: Hai bản dịch đều sử dụng thể thơ lục bát, dịch gần sát với bản dịch nghĩa
- Khác nhau: Trong bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ không xuất hiện “tiếu vấn” – Hình ảnh trẻ con cười (hỏi)
+ Bản dịch của Trần Trọng San ở phần cuối chưa được mềm, có phần hơi bị thiếu ý và hụt hẫng so với bản gốc.