Thơ hai-cư của Ba-sô (trang 160 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
- Về bài 1: Ba-sô sinh ra ở Mi-ê. Ông lên Ê-đô ở được 10 mới về thăm quê. Ở Ê-đô, Ba-sô luôn nhớ quê nhà, nhưng sau khi về quê rồi Ba-sô lại cảm thấy nhớ Ê-đô. Có lẽ ông đã xem Ê-đô như quê hương của mình, muốn gắn bó với nơi này như chính nơi mình đã sinh ra.
- Về bài 2: Ba- sô có nhắc tới chim đỗ quyên trong bài thơ này. Đó chính là tiếng chim mà ông đã nghe được khi trở lại Ki-ô-tô sau 20 năm. Tiếng chim nghe rất thê thiết vậy nên khi nghe được tiếng loài chim này, nhà thơ lại cảm thấy hoài niệm, nhớ về một Ki-ô-tô trong quá khứ, một Ki-ô-tô đã xa xôi.
Câu 2: Tình cảm của tác giả đối với mẹ và với một em bé bị bỏ rơi:
- Bài 3: thấm đẫm xót xa tình mẫu tử. Ông đau đớn khi không có cơ hội chăm sóc cho mẹ và cũng không thể gặp mẹ lần cuối. Chính vì thế “lệ trào nóng hổi”. Dòng nước mắt của nỗi đau đớn, xót xa, tình yêu thương và nỗi thương nhớ đối với người mẹ đã khuất. Làn sương thu ở đây chính là giọt lệ như sương, hay mái tóc của mẹ đã bạc như sương, hay cuộc đời cũng như giọt sương, ngắn ngủi vô thường, … Sương – tóc – lệ tan hoà, tạo ra hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.
- Bài 4: Bài thơ gợi lại một sự thực đau nhói ở Nhật ngày xưa. Đó là vào những năm đói kém, mất mùa, có nhà còn không nuôi nổi con nên đành phải bỏ con vào rừng, thậm chí còn nhẫn tâm giết chết đứa bé. Bởi vậy khi nghe thấy tiếng vượn hú ông liền liên tưởng tới tiếng trẻ con khóc. Trong mùa thu, tiếng gió thổi tựa như tiếng mùa thu than khóc cho nỗi lòng đau buồn của con người. Tất cả những âm thanh đó đã gợi lên nỗi niềm đau thương khôn nguôn.
Câu 3: Vẻ đẹp trong tâm hồn của nhà thơ qua bài 5:
Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi nhớ hình ảnh những em bé nhà nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ bày tỏ tấm lòng từ bi với những sinh vật tội nghiệp và tình yêu thương sâu sắc của tác giả đối với những người có số phận nghèo khổ.
Câu 4: Mối tương giao giữa những sự vật và hiện tượng được biểu thị qua:
- Bài 6: miêu tả cảnh mùa xuân và mùa hoa anh đào nở. Tác giả đã liên tưởng tới hàng ngàn cánh hoa đào mỏng manh, phớt hồng như giấy, lả tả bay và rơi rụng xuống hồ và khiến mặt nước gợn sóng. Chính cảnh tượng đẹp đẽ ấy lại ẩn chứa một triết lí rất sâu sắc: sự tương giao của tất cả mọi vật trong thế giới, mọi vật trong vũ trụ này đều có sự tác động qua lại lẫn nhau, không có vật thể nào có thể tồn tại độc lập.
- Bài 7: Trong cái không gian im lăng đó có chút gì đó trầm buồn thì bỗng nhiên tiếng ve lại hiện lên. Không râm ran mà chỉ rền rĩ để rồi thấm đượm vào đá. Khung cảnh u tịch và vắng lặng cũng đượm buồn
Câu 5: Khát vọng được tiếp tục lãng du của Ba-sô:
Bài thơ này tác giả Ba-sô viết tại Ô-sa-ka vào năm 1694. Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã cảm thấy mình rất yếu đuối, như một cánh chim sắp sửa bay vút vào khoảng chân trời vô tận. Thế nhưng trước cái chết, Ba-sô lại không hề cảm thấy bi lụy. Cả cuộc đời mình Ba- Sô đã phiêu bạt, lang thang khắp nơi. Vì thế ngay cả khi sắp giã từ cuộc đời, ông vẫn còn thấy rất lưu luyến, vẫn còn muốn được tiếp tục cuộc đi - đi bằng hồn mình. Bài thơ giống như một bức thông điệp cho cái tâm nguyện đó. Và cũng đúng làkhi đọc bài thơ, ta lại như cảm thấy hồn Ba-Sô đang lang thang trên khắp các cánh đồng hoang vu.
Câu 6: “Quý ngữ” và cảm thức thẩm mĩ về cái Đơn sơ, U huyền, Vắng lặng trong các bài 6,7,8:
- Bài 6: quý ngữ là “cánh hoa anh đào”. Hình ảnh này khiến liên tưởng đến mùa xuân. Cảm thức thẩm mĩ về sự đơn sơ của bài hai-cư này đó là các triết lí sâu sắc được đúc rút ra từ bức tranh mùa xuân tươi đẹp kia.
- Bài 7: quý ngữ nằm trong hình ảnh "tiếng ve ngâm". Đó chính là âm thanh vang vọng nhất trong mùa hè. Và cảm thức thẩm mĩ của bài thơ nằm tại sự tịch mịch, u huyền của không gian khi mà âm thanh của tiếng ve rền rĩ kia như từng giọt âm thanh thấm đẫm vào từng kẽ đá.
- Bài 8: "những cánh đồng hoang vu". Từ các cánh đồng hoang vu hiện ra trong giấc mơ khi tuổi đã xế bóng, khi tiếng chim kêu như sắp lịm đi kia đã gợi sự liên tưởng đến một mùa thu hiu quạnh và cảm thức thẩm mĩ của toản bài hai-cư cũng được ẩn sâu trong cái vắng lặng đó.
Bài trước: Lập kế hoạch cá nhân (trang 153 sgk Ngữ văn 10 tập 1) Bài tiếp: Lầu Hoàng Hạc (Hoàng Hạc lâu) (trang 160 sgk Ngữ văn 10 tập 1)