Trang chủ > Lớp 10 > Soạn Văn 10 (ngắn nhất) > Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (trích Đại Việt sử kí toàn thư) (trang 44 sgk Ngữ văn 10 tập 2)

Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (trích Đại Việt sử kí toàn thư) (trang 44 sgk Ngữ văn 10 tập 2)

- Phần 1 - (từ đầu … thượng sách giữ nước vậy): Trần Quốc Tuấn tâu kế sách giữ nước lên vua.

- Phần 2 - (tiếp … Quốc Tảng vào viếng): Quốc Tuấn giữ tiết làm tôi.

- Phần 3 - (còn lại): Nhắc lại các công tích và lời căn dặn con của Trần Quốc Tuấn.

Câu 1: Lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua về kế sách giữ nước đã cho thấy:

- Vận dụng sách lược, binh pháp, linh hoạt và phù hợp với thời thế.

- Sức mạnh đoàn kết chính là mấu chốt quan trọng nhất để giành chiến thắng.

- Thượng sách giữ nước chính là khoan thư sức dân khiến kế sâu rễ bền gốc.

Câu 2:

Trần Quốc Tuấn mang lời cha dặn hỏi ý kiến 2 gia nô và 2 người con: cảm phục khi nghe câu trả lời của 2 gia nô, đồng thuận với Hưng Vũ Vương, và giận dữ với câu trả lời thể hiện ý bất trung của Hưng Nhượng Vương. Điều này đã cho thấy tấm lòng trung nghĩa với nhà vua, với đất nước, và không màng tư lợi của Trần Quốc Tuấn, ông là người quyết đoán, thận trọng và cũng chân thành, nghiêm khắc khi giáo dục con cái.

Câu 3:

- Các đặc điểm nổi bật của Trần Quốc Tuấn: tấm lòng trung quân ái quốc; vị tướng anh hùng có tài năng và đức độ.

- Sự tinh tế và khéo léo trong nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật:

+ Đặt nhân vật trong các mối quan hệ: quan hệ với đất nước, với vua (thà chết xin nhà vua không được đầu hàng giặc), với dân (nhắc nhở vua phò trợ dân, khoan sức dân), với các tướng sĩ dưới quyền (tận tâm chỉ dạy) và quan hệ với con cái (nghiêm khắc giáo dục con), với bản thân (giữ đạo trung nghĩa)…

+ Nhân vật với tình huống mang tính thử thách: mâu thuẫn giữa “trung” và “hiếu”, Trần Quốc Tuấn đặt chữ "trung" lên chữ "hiếu", nợ nước đặt trên tình nhà.

Câu 4: Nghệ thuật kể chuyện trong đoạn trích:

- Lời kể không hề đơn điệu theo trật tự thời gian: Hưng Đạo Vương bị ốm nặng trước, sau đó nhắc lại các công lao, đức độ…

- Lồng vào câu chuyện các nhận xét sâu sắc tạo định hướng cho người đọc.

- Cách kể tự nhiên, ngắn gọn, hấp dẫn và mạch lạc, giải quyết được các vấn đề lịch sử: nhân vật với đóng góp, đặc điểm… lối sử kí “văn sử bất phân”.

Câu 5:

Đáp án đúng là: b + c

Luyện tập

Câu 1: Tóm tắt câu chuyện (những ý chính):

- An Sinh Vương có hiềm khích với Trần Thái Tông, trước lúc qua đời đã dặn dò con phải giành lại được thiên hạ; Quốc Tuấn khắc cốt ghi tâm lời dặn của cha nhưng không cho là phải, một lòng kính cẩn giữ tiết làm bề tôi. Ông đi hỏi ý kiến 2 người con và 2 người gia nô.

- Trần Quốc Tuấn soạn sách Binh gia diệu lí yếu lược để dạy bảo các tướng, sưu tập binh pháp những nhà làm thành Bát quái cưu cung đồ.

- Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, liên tiếp đánh bại 2 lần người Nguyên vào xâm chiếm.

- Quốc Tuấn được vua Thánh Tông cho phép được phong tước phong quyền cho người khác, từ Minh tự trở xuống, chỉ có tước Hầu thì phong trước rồi râu sau; nhưng ông chưa bao giờ phong tước cho một người nào.

- Ngày 24/6/1300, Hưng Đạo Đại Vương bị ốm, vua ngự đến thăm và hỏi về kế sách, chiến lược giữ nước.

- Ngày 20/8/1300, Hưng Đạo Đại Vương mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, được tặng Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

Câu 2: Sưu tầm câu chuyện, bài thơ liên quan tới Trần Quốc Tuấn:

- Câu chuyện về lối ngoại giao của Trần Quốc Tuấn:

“Tân Tỵ, [Thiệu Bảo] năm thứ 3 [1281] (…) [Nhân tôn] Sai chú họ là Trần Di Ái (tức Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên. Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lão hầu, cho Mục làm Hàn lâm học sĩ, Tuân làm Thượng thư, lại sai Sài Xuân [có sách gọi Sài Thung] đem 1.000 quân hộ tống về nước. Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp. Hưng Đạo vương Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải. Đến sứ quán, ông đi thẳng vào trong phòng. Xuân đứng dậy vái chào mời ngồi. Mọi người đều kinh ngạc, có biết đâu gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm cái tên đứng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông” (Toàn thư, Bản kỷ – Trần Nhân tôn)