Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa (trang 84 sgk Ngữ văn 10 tập 1)
Câu 1: Bài 1,2
a. Hai lời than thân đều được mở đầu bằng “Thân em như…” với âm điệu ngậm ngùi, xót xa, tạo ấn tượng cho người nghe. Lời than thân là của những người phụ nữ, những cô gái sống trong xã hội phong kiến. Những số phận nhỏ bé, không có quyền được định đoạt hạnh phúc cho bản thân mình.
b. Thân phận có nét chung nhưng nỗi đau của mỗi người lại có những sắc thái riêng được diễn tả thông qua hình ảnh ẩn dụ, so sánh khác nhau.
Bài 1:
Cách mở đầu bằng “Thân em như…” đã cho thấy người phụ nữ tự ý thức được sắc đẹp và tuổi xuân của mình nhưng trách số phận sao lại rẻ mạt, không có quyền được quyết định hạnh phúc cho bản thân mình. Họ như những món hàng - “tấm lụa đào” bị bán ở chợ. Hiểu được điều ấy, người phụ nữ đã gửi gắm tiếng lòng của bản thân mình vào hai câu ca dao. Hai câu ca dao ấy đã thể hiện nỗi lo lắng, xót xa cho thân phận mình.
Bài 2:
Cũng mở đầu bằng một cụm “Thân em như…” nhưng bài này có bốn dòng – dung lượng dài gấp đôi bài trên đã cho thấy được sự ý thức về thân phận của người phụ nữ trở nên rõ ràng và mạnh mẽ hơn. Từ đó, bài ca dao đã không chỉ đơn giản là có mục đích khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ nữa mà nó còn được xem là mong muốn, là lời mời mọc, khát khao được khẳng định vẻ đẹp và giá trị của những người phụ nữ sống trong xã hội cũ.
Câu 2: Bài 3
a. Nếu như 2 bài ca dao trên đều mở đầu bằng “Thân em như…” thì bài ca dao này lại sử dụng đại từ phiếm chỉ “Ai” để mở đầu. Trong ca dao, từ “Ai” thường sử dụng để chỉ những thế lực ép gả, ngăn cản tình yêu và trong bài ca dao này cũng có ý nghĩa tương tự. “Ai” ở đây có thể là cha mẹ, các hủ tục cưới xin hay cũng có thể là chính người tình…
b. Mặc dù lỡ duyên phận nhưng tình nghĩa vẫn luôn bền vững, thủy chung. Điều đó được thể hiện thông qua một hệ thống các hình ảnh của thiên nhiên vũ trụ: mặt trời, mặt trăng, sao Hôm, sao Mai. Tác giả dân gian đã dùng cái bất biến, vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ để khẳng định với tính bền vững, sự thủy chung trong tình yêu, dù không được ở gần nhau nhưng trong lòng mãi mãi có nhau.
c. Vẻ đẹp của câu thơ cuối: Dù không đến được với nhau nhưng chàng trai vẫn luôn một lòng một da chờ đợi cô gái: “Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”. Dù cho có xa cách nhưng chàng trai vẫn một lòng thủy chung chờ đợi cô gái dẫu biết mối tình này là không thể như sao Vượt chờ mặt trăng nhưng mãi mãi không thể đến gần nhau được.
Câu 3: Bài 4:
- Bài ca dao đã diễn tả tình cảm thương nhớ của cặp đôi yêu nhau qua các biểu tượng gần gũi, bình dị: khăn, đèn, mắt. Tác giả dân gian đã dùng phép nhân hóa (khăn, đèn) và phép hoán dụ (mắt) để thổ lộ một cách ý nhị, kín đáo tâm tư và tình cảm của cô gái đối với người mình yêu.
+ Chiếc khăn được hỏi đến đầu tiên và nhiều nhất là để biểu thị nỗi nhớ da diết, triền miên cùng với đó là sự vận động lên, xuống, vắt, rơi khiến tâm trạng bất an của người con gái được hiện lên một cách cụ thể và rõ ràng nhất.
+ Ngọn đèn: hiện thân của nỗi nhớ được đong đếm bằng thời gian, thể hiện tình yêu của người con gái luôn rực sáng và không bao giờ lụi tắt.
+ Đôi mắt: chính là lời bộc bạch trực tiếp nỗi lòng của mình: thương nhớ người yêu nhưng trong lòng vẫn nặng trĩu suy tư nên “Mắt ngủ không yên”.
Câu4: Bài 5
- Chiếc cầu – dải yếm là một hình ảnh nghệ thuật chỉ sử dụng trong ca dao, thể hiện ước muốn mãnh liệt của người dân trong tình yêu. Đây cũng chính là lời tỏ tình đầy ý nhị của cô gái. Có thể thấy đây là một hình ảnh quen thuộc thường xuyên xuất hiện trong các câu ca dao:
“Cô kia cắt cỏ bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang. ”
- Đó là những cây cầu không có thực nhưng lại đem đến cho người đọc vẻ đẹp rất đồng quê, rất dân gian và rồi từ đó ước muốn của cô gái được thể hiện một cách độc đáo, táo bạo hơn:
“Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi. ”
- Người con gái đã chủ động trong tình yêu thông qua việc bắc cầu cho người mình yêu. Đây là một suy nghĩ vô cùng táo bạo trong xã hội phong kiến đầy những ràng buộc, những hủ tục của lễ giáo. Cái cầu dải yếm này vừa thân quen, gần gũi, vừa táo bạo mà trữ tình, lại đằm thắm đầy nữ tính. Nó đã trở thành biểu tượng đẹp cho tình yêu đôi lứa mà chỉ có tư duy nghệ thuật dân gian mới có thể sáng tạo ra được.
Câu 5: Bài 6
- Hình ảnh muối – gừng: được tạo nên từ các hình ảnh có thực trong đời sống (gia vị trong bữa ăn) tượng trưng cho tình nghĩa của con người: sự gắn bó thủy chung khi đã trải qua hết những “vị” của cuộc sống (Gừng cay – muối mặn)
- Giá trị biểu cảm của hình ảnh muối – gừng trong bài ca dao:
+ Là tình nghĩa và sự chung thủy dành cho những cặp vợ chồng
+ Nghĩa tình đó bền vững như Muối ba năm muối đang còn mặn – Gừng chin tháng gừng hãy còn cay
+ Hương vị của muối - gừng đã trở thành hương vị của tình người
+ Khẳng định tấm lòng thủy chung sắt son, không bao giờ chia cách
Câu 6:
- Sự lặp lại cách mở đầu bài ca: Thân em như…
- Các hình ảnh đã trở thành biểu tượng trong ca dao: ngọn đèn, cái cầu, tấm khăn, gừng cay – muối mặn, …
- Hình ảnh ẩn dụ, so sánh (lấy từ trong cuộc sống hằng ngày: tấm lụa đào, củ ấu gai, …; lấy từ thiên nhiên, vũ trụ: mặt trời, trăng, sao)
- Thời gian và không gian nghệ thuật (bài 4)
- Thể thơ lục bát; thể văn 4, song thất lục bát (biến thể); thể hỗn hợp
Luyện tập
Bài 1
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
Các bài ca dao nói về thân em đều có sắc thái biểu cảm:
+ Than thân, trách người không khác không biết trân trọng vẻ đẹp của người con gái
+ Sự ý thức mãnh liệt về giá trị của bản thân của người con gái.
Bài 2
Nhớ ai như nhớ thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ.
Gửi khăn, gửi áo, gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đàng xa
Nhớ khi khăn mở trầu trao
Miệng chỉ cười nụ biết bao nhiêu tình.
Bài ca dao Khăn thương nhớ ai thuộc hệ thống các bài ca dao về nỗi nhớ người yêu.
Câu thơ: “Đất Nước chính là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” (Nguyễn Khoa Điềm) lấy ý từ ca dao nhưng có sự sáng tạo vượt bậc khi tình cảm nam nữ hòa quyện vào tình yêu đất nước.
Bài trước: Viết bài làm văn số 2 (trang 81 sgk Ngữ văn 10 tập 1) Bài tiếp: Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (trang 88 sgk Ngữ văn 10 tập 1)