Tương tư (trang 50 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2)
I. Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Nguyễn Bính sinh năm 1918, mất năm 1966, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính, sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, ở làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
- Thơ Nguyễn Bính đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương, đất nước và tình người đằm thắm, thiết tha. Vì thế, Nguyễn Bính được coi là “thi sĩ của đồng quê” và có rất nhiều tác phẩm được truyền bá rộng khắp.
- Những tác phẩm chính của Nguyễn Bính như: Tâm hồn tôi (1937), Lỡ bước sang ngang (1940), Hương cố nhân (1942), Mười hai bến nước (1942)...
2. Tác phẩm Tương tư
Bài Tương tư được rút ra trong tập "Lỡ bước sang ngang", rất tiêu biểu cho phong cách thơ “chân quê” của Nguyễn Bính.
Bố cục của bài được chia làm 3 phần:
- Phần 1 (4 câu đầu): Mở đầu tâm trạng tương tư
- Phần 2 (12 câu tiếp theo): Chàng trai bày tỏ nỗi tương tư của mình
- Phần 3 (còn lại): Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 50 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
* Nỗi nhớ mong của chàng trai trong bài thơ được thể hiện qua:
- Cách nói bóng gió xa xôi: Mượn trời đất nhớ nhau để thổ lộ nỗi nhớ. Với cách nói này có tác dụng:
+ Nỗi nhớ được xác định trong một khoảng không gian → chủ quan hóa đối tượng: khi người ta tương tư, cảnh vật cũng tương tư, không gian ngập tràn nhung nhớ.
+ Thể hiện sự nhút nhát, ý nhị và sâu sắc của chàng trai.
- Sử dụng thành ngữ “chín nhớ mười mong” để tăng cấp về mức độ cảm xúc → thế giới tâm hồn cụ thể, tình cảm từ một thứ vô hình trở nên hữu hình, cụ thể.
- Cấu trúc câu đặc biệt “ Một người... một người” → đẩy hai đối tượng ra xa và nhịp cầu nối giữa hai người là nỗi nhớ.
→ Tương tư là lẽ dĩ nhiên, là tâm trạng tất yếu của tình yêu.
* Những lời kể, trách móc của chàng trai đó là:
- Lời trách móc như quy kết, làm cho đối tượng khó chạy tội: “Bảo rằng... xa xôi”.
- Tác giả đã phủ định tất cả: không xa, không cách trở, vậy mà người ấy không sang → lời buộc tội cho người con gái.
- Điệp từ phiếm chỉ “ai” tạo âm hưởng trùng điệp, não lòng: trạng thái quen thuộc của tương tư: suy tư, sầu muộn, không thể nào ngủ được → vừa trách móc, vừa ngẩn ngơ và đợi chờ.
- Trách vì yêu: Do quá mong nhớ, tưởng mình bị hờ hững nên sinh ra ngờ vực, hờn dỗi.
→ một kiểu bày tỏ tình cảm rất đời thường của các cặp đôi đang yêu.
* Nỗi nhớ da diết của chàng trai trải dài suốt tới tận cuối cùng của bài thơ nhưng tình cảm của chàng trai vẫn chưa được đền đáp.
Câu 2 (trang 50):
Cách bày tỏ tình yêu, giọng điệu thơ, cách so sánh, ví von,... ở bài thơ này có những điểm rất đáng lưu ý:
- Cách bày tỏ tình yêu của nhân vật trữ tình kín đáo, ý nhị, chân thành mà mộc mạc của chàng trai quê.
- Ngôn ngữ thơ dung dị hồn nhiên, dân dã nhưng vẫn pha chất lãng mạn mộng mơ.
- Sử dụng hệ thống ẩn dụ - hoán dụ - ước lệ một cách đặc sắc và sáng tạo.
- Hình ảnh ví von, chất liệu ngôn từ chân quê, đậm màu sắc dân gian: thôn Đoài - thôn Đông, bến – đò, hoa – bướm, trầu – cau,... → quan niệm, ước mong về một tình yêu gắn bó, chung thủy, bền lâu.
- Giọng điệu thơ nhẹ nhàng, chân thành và tha thiết.
Câu 3 (trang 50):
Lời nhận định của Hoài Thanh cho rằng trong thơ của Nguyễn Bính có “hồn xưa đất nước” rất đúng với bài Tương tư. Điều đó được thể hiện ở những câu thơ bình dị nhất nhưng vẫn có sức lôi cuốn, vẫn có cái duyên là xao động lòng người.
Bên cạnh đó, bài thơ cũng có cách thể hiện cảm xúc, cách sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc mà kín đáo. Chất liệu, hình ảnh, màu sắc dân gian, đậm chất “chân quê”....
Bài trước: Nhớ đồng (trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2) Bài tiếp: Chiều xuân (trang 52 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2)