Trang chủ > Lớp 11 > Soạn Văn 11 (ngắn nhất) > Chí phèo - Phần 1: Tác giả Nam Cao (trang 142 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

Chí phèo - Phần 1: Tác giả Nam Cao (trang 142 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

Câu 1 (trang 142 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

a, Tiểu sử về nhà văn Nam Cao:

- Nhà văn Nam Cao có tên thật là Trần Hữu Tri. Ông sinh năm 1915, mất năm 1951

- Quê làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

- Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khó, là người duy nhất trong gia đình được đi học.

* Trước cách mạng:

+ Học hết Thành chung, đi làm nhiều nơi: Sài Gòn, Hà Nội. Do đau ốm, ông phải về quê. Nam Cao phải sống vất vưởng, khi làm ông giáo trường tư, khi viết văn, làm gia sư, lúc thì phải về quê sống nhờ vợ.

+ Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc.

* Sau cách mạng tháng Tám

+ Ông vừa viết văn vừa tham gia cách mạng.

+ Năm 1946, Nam Cao tham gia đoàn quân Nam tiến.

+ Năm 1950, ông tham gia chiến dịch Biên Giới.

+ Năm 1951, ông hi sinh trên đường đi công tác.

b, Đôi nét về con người Nam cao

- Nam Cao là con người có bề ngoài lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm phong phú. Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ hẹp, vươn tới cuộc sống cao đẹp xứng đáng với danh hiệu con người.

- Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chứa chan tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội. Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng gọi là người (Đời thừa). Đó là một trong những lí do dẫn Nam Cao đến với con đường nghệ thuật hiện thực “vi nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.

Câu 2 (trang 142):

Những nội dung chính trong quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nam Cao:

* Trước cách mạng tháng Tám

- Nghệ thuật phải bám sát vào cuộc đời, gắn bó với đời sống nhân dân lao động.

- Nhà văn phải có đôi mắt tình thương, tác phẩm văn chương hay, có giá trị chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc.

- Văn chương là lĩnh vực đòi hỏi phải khám phá, tìm tòi, sáng tạo.

- Lao động nghệ thuật là một hoạt động nghiêm túc, công phu, người cầm bút phải có lương tâm.

* Sau cách mạng: Nam Cao khẳng định sứ mệnh của nhà văn lúc đó phải phục vụ cho cuộc chiến đấu. Đây là bước tiến vượt bậc trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.

=> Nam Cao xứng đáng là một nhà văn hiện thực sâu sắc, có quan điểm nghệ thuật tiến bộ.

Câu 3 (trang 142):

- Những trăn trở, day dứt của Nam Cao khi viết về:

* Người trí thức nghèo:

+ Những người tri thức nghèo ở đây là những nhà văn nghèo, những viên chức, những anh giáo khổ trường tư, …Họ có ý thức sâu sắc về giá trị sống và nhân phẩm, mang nhiều hoài bão cao đẹp, có tâm huyết và tài năng, luôn khát khao được phát triển nhân cách, được đóng góp cho xã hội.

+ Nam cao nêu lên tình cảnh sống dở chết dở của người trí thức nghèo

+ Tấn bi kịch, tinh thần dai dẳng đau đớn ở họ

+ Họ đang sống trong một xã hội ngột ngạt, phi nhân tính đã bóp nghẹt sự sống con người

+ Qua đó thể hiện niềm khao khát về một cuộc sống thực sự có ý nghĩa

* Người nông dân cùng khổ:

+ Ông viết lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ: đói nghèo, sơ xác, bần cùng, thê thảm.

+ Những phận người thấp cổ bé họng, bị lăng mạ, xỉ nhục, đẩy vào đường cùng.

+ Đi sâu vào tình trạng người nông dân bị tha hóa, lưu manh hóa, mất hết nhân hình lẫn nhân tính

+ Từ đó nhà văn lên án, tố cáo đanh thép xã hội tàn bạo hủy hoại nhân cách người nông dân

+ Phát hiện khẳng định bản chất lương thiện ngay cả trong những con người bị hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính.

Câu 4 (trang 142):

Nam Cao là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, những nét chính trong phong cách nghệ thuật của ông đó là:

- Luôn hướng tới thế giới nội tâm của con người.

- Có biệt tài trong việc miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật.

- Viết về cái nhỏ nhặt hàng ngày mà đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, có tầm triết lí sâu sắc và có giọng văn đặc sắc.

=> Ngòi bút của ông lạnh lùng, tỉnh táo, trĩu nặng ưu tư và đằm thắm yêu thương. Nam Cao được đánh giá là nhà văn hàng đầu trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.