Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (tiếp theo) (trang 36 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
Tổng quan: Ngôn ngữ chung của xã hội là cơ sở để sản sinh và lĩnh hội lời nói cá nhân. Ngược lại trong lời nói cá nhân vừa có phần biểu hiện của ngôn ngữ chung, vừa có những nét riêng. Hơn nữa, cá nhân có thể sáng tạo, góp phần làm biến đổi và phát triển ngôn ngữ chung.
Luyện Tập
Câu 1 (trang 36 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Sự sáng tạo của Nguyễn Du khi sử dụng từ "nách" trong câu:
Nách tường bông liễu bay sang láng giềng
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
- Từ nách trong câu thơ của Nguyễn Du dùng để chỉ góc tường. Trong câu thơ này, Nguyễn Du đã chuyển nghĩa cho từ nách từ mang nghĩa chỉ vị trí thân thể con người sang chỉ vị trí giao nhau giữa hai bức tường tạo nên một góc. Như vậy, từ nách trong câu thơ của Nguyễn Du được dùng theo nghĩa chuyển. Nó được chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ.
Câu 2 (trang 36):
Như chúng ta đã biết từ "xuân" vốn mang nghĩa phổ quát, nó được coi là mùa chuyến tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mở đầu của một năm. Nhưng khi xuất hiện trong văn chương, từ "xuân" lại mang nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong câu thơ: Ngán nỗi xuân đi rồi xuân lại (Hồ Xuân Hương), từ "xuân" vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ sức sống và nhu cầu tình cảm của tuổi trẻ.
- Trong câu thơ của Nguyễn Du: Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay, thì từ xuân trong cành xuân chỉ vẻ đẹp của người con gái, tuổi xuân của người con gái.
- Từ xuân (bầu xuân) trong câu thơ của Nguyễn Khuyến - "Chén quỳnh tương ắp bầu xuân" lại có nghĩa chỉ chất men say nồng của rượu ngon, đồng thời cũng có nghĩa bóng chỉ sức sống dạt dào của tuổi trẻ, chỉ tình cảm bạn bè thắm thiết.
- Trong câu thơ của chủ tích Hồ Chí Minh:
"Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân"
Từ "xuân" thứ nhất mang nghĩa gốc chỉ mùa xuân - một mùa đầu tiên của năm. Từ "xuân" thứ hai chỉ sức sống mới và sự tươi đẹp.
Câu 3 (trang 36):
Như chúng ta đã biết từ "Mặt trời" với nghĩa gốc của nó là một thiên thể nóng sáng, ở xa trái đất, là nguồn sưởi ấm và chiếu sáng cho trái đất. Khi được đưa vào thơ, từ "mặt trời" lại mang nhiều nghĩa khác nhau:
a, Trong câu thơ của nhà thơ Huy Cận:
"Mặt trời xuống biển như hòn lửa" - từ "mặt trời" ở đây được dùng với nghĩa gốc.
b, Trong hai câu thơ của nhà thơ Tố Hữu:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim" - từ "mặt trời" ở đây lại mang ý nghĩa chỉ chân lí, lí tưởng cách mạng.
c, Ở hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
"Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng" - Từ "mặt trời" thứ nhất được dùng với nghĩa gốc. Từ "mặt trời" thứ hai được dùng với nghĩa ẩn dụ, chỉ đứa con của người mẹ. Đối với người mẹ, đứa con là cả một niềm hạnh phúc, niềm tin, ánh sáng cho cuộc đời của mẹ.
Câu 4 (trang 36):
a, Từ "mọn mằn" là từ do cá nhân tạo ra, chưa có trong ngôn ngữ chung của xã hội:
- Tiếng mọn với nghĩa “nhỏ đến mức không đáng kể”.
- Những quy tắc cấu tạo chung:
+ Quy tắc tạo từ láy hai tiếng, lặp lại phụ âm đầu.
+ Trong hai tiếng, tiếng gốc (mọn) đặt trước, tiếng láy đặt sau.
+ Tiếng láy lặp lại phụ âm đầu, nhưng đổi thành vần ăn.
b, Từ "giỏi giắn" cũng là từ do cá nhân tạo ra, chưa có trong ngôn ngữ chung của xã hội và cũng được tạo ra theo quy tắc trên: láy phụ âm đầu, tiếng thứ hai mang vần ăn.
Từ giỏi giắn cũng có nghĩa: rất giỏi (sắc thái biểu cảm thể hiện sự mến mộ, thiện cảm).
c, Từ "nội soi" được tạo ra từ hai tiếng có sẵn trong ngôn ngữ là nội và soi, đồng thời dựa vào phương thức cấu tạo từ ghép chính phụ có tiếng chính chỉ hoạt động (đi sau) và tiếng bổ sung ý nghĩa (đi trước).
Bài trước: Vịnh khoa thi Hương (trang 34 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1) Bài tiếp: Bài ca ngất ngưởng (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)