Trang chủ > Lớp 11 > Soạn Văn 11 (ngắn nhất) > Lẽ ghét thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên) (trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

Lẽ ghét thương (Trích Truyện Lục Vân Tiên) (trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)

I. Tìm hiểu tác phẩm

1. Tác phẩm Lục Vân Tiên

- Hoàn cảnh sáng tác: Khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX.

- Thể loại: Truyện thơ Nôm bác học nhưng mang nhiều tính dân gian.

- Nội dung: Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột giữa cái thiện và cái ác, nhằm đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lí tưởng của tác giả và nhân dân đương thời về một xã hội tốt đẹp, ở đó mối quan hệ giữa con người với con người đều thấm đượm tình cảm yêu thương, nhân ái.

2. Đoạn trích Lẽ ghét thương là đoạn thơ được trích từ câu 473 đến câu 504 của truyện Lục Vân Tiên, kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng nho sinh (Vân Tiên, Từ Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ cùng uống rượu, làm thơ trong quán của ông trước lúc vào trường thi.

II. Hướng dẫn soạn bài

Bố cục của bài thơ gồm 3 phần:

- Phần 1 (6 câu đầu): Cuộc đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên

- Phần 2 (10 câu tiếp): Lời ông Quán bàn về lẽ ghét

- Phần 3 (còn lại): Lời ông Quán bàn về lẽ thương

Câu 1 (trang 48 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

- Những đời vua mà ông Quán ghét đó là: đời Kiệt, Trụ, đời U, Lệ, đời Ngũ bá thời Xuân Thu, đời thúc quý.

→ Tất cả các triều đại được nhắc đến trong lời ông Quán đều có một điểm chung, đó là sự suy tàn. Những người đứng đầu nhà nước thì lúc nào cũng say đắm trong tửu sắc, không chăm lo triều chính không lo lắng đến đời sống nhân dân mà chỉ chăm chăm hưởng thụ.

=> Phê phán các triều đại suy tàn, Nguyễn Đình Chiểu đã đứng trên lập trường của nhân dân. Đó là cơ sở của sự ghét, ghét sâu sắc, ghét cay nghiệt đến tột cùng cảm xúc.

- Những lẽ thương mà ông Quán hướng đến: đức thánh nhân, thầy Nhan Tử, ông Gia Cát, thầy Đồng Tử, người Nguyên Lượng, ông Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc.

→ Đây đều là những người có tài, có đức, có chí muốn hành đạo giúp đời, giúp dân nhưng không đạt được sở nguyện của mình. Những con người này đều có những nét đồng cảnh với Nguyễn Đình Chiểu, bởi thế tình thương ở đây chính niềm cảm thông sâu sắc từ tấm lòng của nhà thơ.

=> Nguyễn Đình Chiểu đã xuất phát từ chính cuộc đời, từ sự an bình của nhân dân mà thương, tiếc cho những tài năng bị các triều đại vua chúa vùi dập.

Câu 2 (trang 48):

Đoạn trích khá thành công trong việc sử dụng phép đối cụ thể là cặp đối nghĩa giữa ghét – thương. Từ ghét và thương đều được lặp lại 12 lần, sắp đặt sóng đôi, đăng đối khá linh hoạt (hay ghét – hay thương; thương ghét – ghét thương... ) để qua đó giúp biểu hiện nổi bật và phân minh hai tình cảm trong tâm hồn của nhà thơ. Với nhà thơ, ghét và thương rành rọt, không lẫn lộn và đều sâu nặng, không nhạt nhòa, chung chung. Việc lặp lại hai từ này cũng giúp tăng thêm cường độ cảm xúc trong: yêu thương và căm ghét đều đạt đến sự tột cùng, mãnh liệt.

Câu 3 (trang 48):

Vì chưng hay ghét cũng là hay thương

Câu thơ mang tính chất triết lí đạo đức mà giàu chất trữ tình và dạt dào cảm xúc. Thương và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít với nhau trong tâm hồn nhà thơ. Tình cảm thương, ghét cứ đan xen nối tiếp nhau, hòa cùng một nhịp với cuộc đời, với nhân dân. Trong trái tim yêu thương mênh mông của nhà thơ, hai tình cảm yêu, ghét cứ đan xen, nối tiếp nhau hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân. Đó chính là đỉnh cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu.

II. Luyện tập

Câu hỏi (trang 48): Theo em câu thơ nào trong đoạn trích có thể thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của cả đoạn. Hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của mình về câu thơ đó.

Giải đáp:

Theo em câu thơ thâu tóm toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và tình cảm của đoạn trích là câu:

"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"

Bởi thương và ghét là hai tình cảm có mối quan hệ khăng khít, không thể tách rời trong tâm hồn nhà thơ. Bởi càng thương bao nhiêu thì càng ghét bấy nhiêu. Tình cảm ghét và thương cứ đan xen, nối tiếp nhau. Ghét suy cho cùng cũng chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu thương.