Bài ca phong cảnh Hương Sơn (trang 51 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1)
I. Tìm hiểu về tác phẩm
1. Tác giả
- Nhà thơ Chu Mạnh Trinh sinh năm 1862, mất năm 1905
- Quê quán: làng Phú Thị - Đông Yên phủ Khoái Châu nay thuộc huyện Văn Giang Hưng Yên.
- Chu Mạnh Trinh không chỉ giỏi về thơ mà còn là một nhà kiến trúc nổi tiếng.
2. Về tác phẩm
- Bài ca phong cảnh Hương Sơn là một trong ba bài thơ ông viết về Hương Sơn vào dịp ông đứng trông coi trùng tu, tôn tạo quần thể danh thắng nơi đây.
II. Hướng dẫn soạn bài
Bố cục của bài thơ gồm 3 đoạn:
- Đoạn 1 (4 câu thơ đầu): Khái quát chung về phong cảnh Hương Sơn
- Đoạn 2 (10 câu tiếp): Vẻ đẹp cảnh Hương Sơn
- Đoạn 3 (còn lại): Cảm xúc của nhà thơ về Hương Sơn
Câu 1 (trang 51 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Mở đầu bài thơ là câu thơ:
"Bầu trời cảnh Bụt"
- Bầu trời: cảnh thật
- Cảnh Bụt (cảnh tiên): cảnh nửa thực, nửa ảo.
=> Câu thơ ngắn đặc biệt: Như là lời giới thiệu, gợi ra một miền non nước, một không gian rộng lớn vô cùng với những cảnh sắc thấm đẫm thiền vị, gợi không khí tâm linh. Cảnh vật hiện ra là cảnh tâm linh và là cảnh tôn giáo.
Cảnh vật trong bài hát nói mang màu sắc tôn giáo (đạo Phật) với tất cả tấm lòng ngưỡng mộ, trang nghiêm nhưng gắn kết với tình yêu cái đẹp thiên nhiên của nhà thơ: "thỏ thẻ rừng mai", "lững lờ khe Yến", "lồng bóng nguyệt", "uốn thang mây".
=> Sự hòa quyện giữa cảm hứng tôn giáo trang nghiêm và lòng yêu quê hương đất nước là giá trị nhân bản cao đẹp trong tâm hồn thi nhân.
Câu 2 (trang 51):
Nhà thơ tả cảm giác của khách vãn cảnh Hương Sơn khi nghe tiếng chuông chùa như sau:
"Vẳng bên tai một tiếng chày kinh
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng"
Du khách từ cái thế giới đầy biến động ngoài kia vào đây dường như cũng bừng tỉnh ngộ, nghĩa là cũng nhập vào làm một với cảnh Bụt tĩnh lặng, trang nghiêm nơi chốn này. Con người đi vào cảnh thảng thốt với tiếng chày kình. Tất cả đều cởi bỏ mọi phiền lụy, sân si của trần gian để hòa nhập vào cái không khí linh thiêng nơi chốn Phật này. Tại khoảnh khắc ấy, cả chim, cá và người đều dường như thoát tục. Cái sinh khí Hương Sơn vô hình là thế, vậy mà thi nhân đã thấy nó hiện hữu trong tất cả, hòa tan trong tất cả.
Câu 3 (trang 51):
Bài thơ mang giá trị nghệ thuật đặc sắc trong việc tả không gian, màu sắc và âm thanh:
- Tả không gian:
+ Từ xa đến gần, từ bao quát đến cụ thể.
+ Không gian nhiều tầng, cao thấp trập trùng.
- Tả âm thanh: Thỏ thẻ (tiếng chim), thoảng (tiếng chày kinh)...
=> Âm thanh làm nổi bật không khí tĩnh lặng, thiêng liêng.
- Tả màu sắc:
+ Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt
+ Trong hang lồng bóng trăng (Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt).
+ Đường lên Hương Sơn gập ghềnh, uốn lượn, có mây phủ như thang mây...
=> Màu sắc vừa lộng lẫy, vừa cách điệu làm nổi bật vẻ mỹ lệ của cảnh vật.
Qua đó ta thấy được một tâm hồn thi sĩ, yêu cái đẹp, yêu quê hương đất nước.