Trang chủ > Lớp 11 > Soạn Văn 11 (hay nhất) > Soạn văn lớp 11: Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học

Soạn văn lớp 11: Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học

Đề 1: Trình bày cảm nhận của anh / chị về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (Trích đoạn Thượng kinh kí sự - Lê Hữu Trác)
1. Phân tích đề
- Đề này thuộc kiểu đề văn định hướng và các thao tác lập luận.
- Chủ đề nghị luận: Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh.
- Yêu cầu về hình thức: Đây là 1 bài văn (nêu cảm nghĩ về giá trị hiện thực của văn bản). Bằng chứng được rút ra chủ yếu từ đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.

2. Lập dàn ý

a. Mở bài: Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm của đoạn trích (Nêu luận điểm của đề)

VD: Không chỉ là một danh y lỗi lạc, Lê Hữu Trác còn là một nhà nhân văn tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII. Nhắc đến ông thì không thể không nhắc đến "Thương kinh kí sự”. Tác phẩm phản ánh hiện thực sâu sắc về cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền thế của chốn phủ chúa. Giá trị này đặc biệt được thể hiện trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.

b. Thân bài: Cần khai triển rõ các ý sau:

- Hình ảnh hiện thực cuộc sống xa hoa chốn phủ chúa:

+ Quang cảnh hoàng cung hiện lên vô cùng xa hoa, tráng lệ và không kém phần linh thiêng. Cảnh tượng nói lên uy quyền tối cao của nhà chúa.

+ Với sự sang trọng là cung cách sinh hoạt đầy kiểu cách.

+ Từ hình ảnh này ta có thể thấy được thái độ phê phán nhẹ nhàng nhưng đĩnh đạc của tác giả, đồng thời dự đoán sự suy tàn của giai cấp thống trị Lê - Trịnh trong thế kỷ XVIII đang đến gần.

c. Kết luận: Khẳng định lại vấn đề và liên hệ với bạn.

VD: Đoạn trích "Vào phủ chúa Trịnh" có giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng những quan sát tinh tế và những ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ nên bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng thể hiện thái độ coi thường danh lợi. Đối với ông, không có gì quý hơn một cuộc sống tự do trên cánh đồng quê hương xanh xanh, với tất cả tài năng và tâm huyết của mình cống hiến cho y học, cứu thế. Cuộc sống trong cung vua chúa tuy vô cùng giàu sang phú quý nhưng cuối cùng cũng chỉ là ra vào, cúi đầu, câu cá trong chậu, chim nhốt trong lồng.

Đề 2: Từ những bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II) của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương, anh (chị) hiểu điều gì về người phụ nữ VN thời xưa.

1. Mở bài: Giới thiệu hình tượng người phụ nữ trong văn học nói chung.

Ví dụ: Trong kho tàng văn học VN có rất nhiều bài thơ nói lên thân phận người phụ nữ thời phong kiến ​​xưa. Họ phải chịu sự ràng buộc của những nghi thức phong kiến "Tam tòng, tứ đức" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử và công dung ngôn hạnh). Họ khó có quyền quyết định cuộc đời mình, chỉ sống trong sự cam chịu và khuất phục. Đồng cảm với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ xưa, 2 nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã thay mặt họ nói lên những vần thơ như: Tự tình, Bánh trôi nước, Thương vợ...

2. Thân bài

Những điểm chính cần đạt:

* Cảm hứng về người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và thơ Trần Tế Xương.

* Qua 3 bài thơ làm nổi lên hình tượng người phụ nữ Việt Nam thời xưa với các phẩm chất:

- Người phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, khó khăn, vất vả:

+ Trong bài Bánh trôi nước là người phụ nữ với thân phận lênh đênh. Họ không có quyền lựa chọn để quyết định cuộc sống tình yêu, thậm chí cả cuộc đời của mình. Đó là hình ảnh người phụ nữ mang dáng dấp của những người phụ nữ cam chịu, nhẫn nại trong ca dao cổ.

+ Trong bài Thương vợ là hình ảnh một người phụ nữ chịu thương, chịu khó, đi sớm về khuya, quanh năm vất vả vì miếng cơm manh áo, tiền bạc của gia đình.

+ Trong bài Tự tình là nỗi buồn về thân phận, tình duyên, hạnh phúc gia đình - những điều rất quan trọng và vô cùng ý nghĩa đối với người phụ nữ.

- Một người phụ nữ với nhiều phẩm chất và khát vọng được yêu:

+ Trong 2 bài thơ của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người phụ nữ vẫn hiện lên nổi bật với khát vọng yêu đương, khát khao được yêu thương mãnh liệt.

+ Trong bài Thương vợ, hình ảnh bà Tú nổi bật lên vẻ đẹp của người phụ nữ VN truyền thống nhân hậu, dũng cảm, giàu đức hi sinh, hết mực yêu thương chồng con.

3. Kết bài: tổng kết và đánh giá vấn đề của luận văn. Bày tỏ cảm xúc của chính bạn.

Ví dụ: Ngày nay, địa vị của người phụ nữ chiếm một vị trí quan trọng trong gia đình. Bởi xã hội “trọng nam khinh nữ” đã bị đàn áp và thay thế bằng một xã hội “công bằng, bình đẳng, nam nữ bình đẳng”. Nhưng không vì thế mà người phụ nữ Việt Nam mất đi những thuần phong mỹ tục vốn có. Và luôn giữ được phẩm chất, nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đảm đang.

Đề 3: Về nhân cách chân chính của nhà Nho Bài ca ngắn đi trên bãi cát (hay Bài ca ngất ngưởng).

Các ý chính cần thực hiện là:

a. Vài nét về nhân cách nhà Nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát.

- Vẻ đẹp của nhân cách nhà Nho trong bài thơ này được thể hiện chủ yếu ở cái nhìn thấu tình đạt lý của Cao Bá Quát.

- Tư tưởng cao và bề rộng của tư tưởng nhà thơ nằm ở chỗ nhận thức được bản chất tầm thường của việc học đại học và con đường lập nghiệp, vinh quang xưa nay. Từ việc đi trên cát và nghĩ đến việc trở nên nổi tiếng, đến việc danh lợi là 1 sự kết hợp sáng tạo nhưng hợp lý. Người đi trên cát vướng cát chẳng khác gì mồi nhử danh lợi, lôi kéo, làm hoang mang lòng người.

- Nhìn thấy con đường đến vinh quang và thắng lợi đầy gian nan thử thách, dù không tìm được con đường khác nhưng Cao Bá Quát hiểu rằng mình không thể tiếp tục bước đi trên bãi cát danh lợi này và mãi mãi được.

b. Vẻ đẹp nhân cách nhà nho trong bài Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ.

- Vẻ đẹp của nhân cách nhà Nho trong bài thơ này được thể hiện chủ yếu ở thú chơi "ngông" của con người cậy tài, hiểu sâu sắc cái tài của mình.

- Dựa vào tài năng và nhân cách riêng của mình, Nguyễn Công Trứ trong bài Bài ca ngất ngưởng đã thể hiện bản lĩnh, sự bứt phá trong lối sống, bớt khuôn phép của tôn giáo.

- Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng khi hành đạo (khi làm quan, thi hành chức vụ, ông luôn tỏ ra thẳng thắn, thậm chí dám đề xuất, kiến ​​nghị với vua). Có được phong thái kiêu kỳ như vậy là do ông có tài và tâm huyết với nghề. Không cúi xuống để vinh thân phì gia. Ngoài đời, Nguyễn Công Chú có nhiều công lao và là người có nhiều tài lẻ, tuy vậy ông vẫn phải trải qua một cuộc đời làm quan không mấy thuận lợi (bị thăng giáng thất thường).

- Sau khi từ quan, cách nghỉ ngơi, vui chơi của ông cũng rất ngông, rất khác thường. Ông đội mo trên đuôi bò, cho rằng đó là để “che miệng thiên hạ”, ông đưa các cô gái trẻ đi chùa, đi hát ả đào và đánh giá cao các việc này. Ông ấy có quyền lực rất lớn vì ông ấy được nghỉ hưu trong danh dự, sau khi đã làm được rất nhiều điều cho đất nước. Theo ông, điều quan trọng nhất của Nho giáo là hoạt động thực tiễn chứ không phải lối sống phù hợp với dư luận xã hội.