Soạn văn lớp 11: Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội
b. Thân bài
-Trong xã hội cũ: Nạn nhân của cái ác thường là những người có hoàn cảnh đặc biệt: những cô gái mồ côi, những người có ngoại hình xấu xí nhưng tấm lòng nhân hậu. Truyện Tấm Cám cũng không ngoại lệ, Tấm là một cô bé phải chịu cảnh mồ côi mẹ từ nhỏ, người cha lấy vợ lẽ đã có 1 đứa con riêng...
+ Cái ác luôn tàn nhẫn, nhiều thủ đoạn, giẫm đạp lên cái thiện như thế nào? (Mẹ con Cám đã giết Tấm bao nhiêu lần? Tại sao? )
+ Lòng nhân ái không đơn độc mà luôn có sự giúp đỡ của mọi người. (Được Bụt giúp đỡ)
+ Cái thiện đã chống lại cái ác như thế nào? (Từ thụ động chỉ trông chờ Bụt, đến Tấm chủ động tự mình đấu tranh giành lấy hạnh phúc; từ yếu đến mạnh, phản ứng như thế nào? )
- Trong xã hội ngày nay:
+ Thiện ác luôn song hành, vì cuộc sống vốn có những bất công.
+ Cái ác càng nhiều thủ đoạn, càng thâm hiểm hơn.
+ Cái thiện phải xây dựng một vị trí xã hội vững chắc, đứng vững, phải đoàn kết chống lại cái ác.
=> Dù là xã hội xưa hay nay, chiến thắng cuối cùng luôn nghiêng về cái thiện, và cái ác luôn bị xóa sổ. Kẻ sống dở thì bao giờ cũng phải gánh chịu hậu quả nặng nề.
- Quy luật: "Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo"
c. Kết bài
Liên hệ bản thân để rút ra bài học:
+ Cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái thiện và cái ác không chỉ tồn tại trong xã hội xưa và nay mà còn tồn tại trong mỗi con người.
+ Cần xây dựng nhân cách tốt để chống lại những ảnh hưởng xấu.
+ Kiên quyết đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác trong xã hội.
Đề 2 Trang 14 Sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập I:
Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong "Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba - 1442":
"Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.
a. Mở bài: Giới thiệu, trích dẫn câu nói
Có thể làm theo mẫu:
4000 năm lịch sử, 4000 năm dựng nước và giữ nước, 4000 năm ấy đủ để ghi lại những dấu ấn của những người con của dân tộc- những con người làm nên đất nước - "hiền khí của quốc gia". Thật vậy, Thân Nhân Trung đã từng viết: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia", nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.
b. Thân bài
- Giải thích câu nói của Thân Nhân Trung:
+ Hiểu theo nghĩa hiển ngôn của từng chữ, hiền có nghĩa là sống tốt với mọi người (chính nghĩa), hết lòng vì người khác mà làm tròn bổn phận; Tài là khả năng đặc biệt để làm một cái gì đó. Theo nghĩa hàm ngôn, hiền tài là người rất tài giỏi, học rộng, đức độ, một lòng một dạ vì dân, vì nước.
+ Nguyên khí là khí nguyên thủy tạo nên sự sống của vạn vật. Theo nghĩa rộng, nguyên tắc là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội và đất nước.
- Khẳng định ý kiến của Thân Nhân Trung “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là hoàn toàn đúng đắn, được chứng minh qua việc nêu các điển tích lịch sử:
+ Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ … (với những sự kiện cụ thể)
+ Trong những thế kỷ trước, nhân vật nổi tiếng của TK XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - Người đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền, độc lập, tự do của Tổ quốc và khẳng định tên tuổi nước Việt Nam trước toàn thế giới.
- Nếu nguyên khí thịnh thì nước mạnh, những người này là nền tảng của đất nước, những con người đã làm nên lịch sử 4000 năm. (Trích ví dụ về các cuộc chiến tranh của nhân dân ta)
- Nguyên khí yếu: thời kỳ suy tàn của các chính quyền Trịnh Nguyễn và An Dương Vương vì chủ quan khinh địch nên lâm vào cảnh nước mất nhà tan.
c. Kết bài
- Bài học rút ra từ tư tưởng của Thân Nhân Trung:
+ Ở mọi thời đại, “Hiền tài” là “nguyên khí của quốc gia”. Vì vậy cần phải trọng dụng nhân tài, có chính sách ưu đãi đối với họ, nhất là trong thời kỳ mở cửa, tình trạng chảy máu chất xám nhiều như hiện nay.
+ Ở cấp độ nhỏ hơn: Cơ quan, đơn vị biết trọng dụng người tài sẽ thúc đẩy công việc nhanh hơn, hiệu quả hơn.
+ Nhà nước ta hiện nay cũng coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đồng thời, vẫn có nhiều chính sách ưu đãi đối với những nhân tài có điều kiện cống hiến cho đất nước.
Đề 3 Trang 14 Sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập I:
Viết bài văn bày tỏ quan điểm của anh / chị về phương châm: học đi đôi với hành.
a. Mở bài
- Từ xưa đến nay việc học luôn được coi trọng. Học tập là 1 quá trình liên tục, lâu dài, đồng hành cùng con người trong suốt cuộc đời.
- Nếu chỉ học kiến thức mà không vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống thì việc học sẽ không mang lại kết quả như mong muốn.
- Học luôn phải đi đôi với hành.
b. Thân bài
Giải thích khái niệm:
- Học là gì? Học ở đây được hiểu là quá trình tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng do người khác truyền đạt hoặc tự mình học và tiếp thu kiến thức từ sách báo, tivi, v. v.
- Hành là gì? Hành là thực hành. Lấy những gì bạn đã học và áp dụng nó vào thực tiễn
- Học đi đôi với hành là gì? Tức là sau khi tiếp thu kiến thức do người khác truyền đạt hoặc tự học, bạn sẽ áp dụng vào thực tế những gì đã học để kiểm tra xem nó có đúng hay không, để sinh động hóa nó.
Bàn bạc, nhận xét, đánh giá:
- Những con đường học để lĩnh hôi tri thức:
+ Tiếp thu tri thức của con người dưới sự hướng dẫn của thầy cô.
+ Tiếp thu kiến thức bằng cách dạy dỗ ông bà, cha mẹ, anh em…
+ Tiếp thu kiến thức bằng cách tự học: học từ sách báo, tài liệu, tivi. học trong cuộc sống,
- Mục đích của việc học:
+ Quá trình học nhằm đến một mục đích chung, đó là làm phong phú những hiểu biết của mình. Giúp mình mở rộng hơn, hiểu sâu hơn những kiến thức của nhân loại.
+ Để trang bị cho bản thân các kiến thức, kĩ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, để từ đó ta sử dụng vào lao động sản xuất, tạo ra của cải vật chất, … góp phần đưa xã hội ngày càng phát triển.
+ Nhằm phát triển nhân cách một cách toàn diện.
- Phương châm "Học đi đôi với hành" là hoàn toàn đúng, vì:
+ Trong mối quan hệ giữa học với hành, học đóng vai trò quyết định. Vì nếu bạn không tự học kiến thức thì lấy đâu ra kiến thức để áp dụng vào thực tế cuộc sống và kiểm nghiệm xem nó tốt hay xấu, tốt hay dở.
+ Nếu chúng ta chỉ biết học lý thuyết mà không biết thực hành thì những lý thuyết chúng ta học cùng nhau sẽ không có nhiều tác dụngtrong cuộc sống. Ví dụ: một sinh viên học để trở thành một bác sĩ phẫu thuật, nếu anh ta chỉ học lý thuyết mà không thực hành thì khi ra trường kỹ năng của anh ta sẽ như thế nào? Hay một kỹ sư nông nghiệp suốt ngày chỉ chăm chăm vào lý thuyết mà không bao giờ thực hành, nếu lý thuyết đó có ảnh hưởng gì đến sự phát triển chăn nuôi, nông nghiệp nước nhà.
=> Chúng ta không được chỉ học những lý thuyết, nhưng chúng ta cần biết cách áp dụng những lý thuyết đó vào cuộc sống. Chúng ta phải biến những kiến thức đã học thành những tri thức phục vụ cuộc sống. Để thực hiện được điều đó, trước hết chúng ta phải học lí thuyết thật chắc, thật giỏi.
Mở rộng, nâng cao vấn đề:
- Ngày nay, học đi đôi với làm đang được rất nhiều người quan tâm và coi trọng.
- Nhưng vẫn có trường hợp học sinh, sinh viên học lý thuyết mà ít khi thực hành. Ví dụ, ở một số trường THPT, học lý thuyết Hóa, Lý không thể để 100% học sin trực tiếp làm thí nghiệm, ở các trường THPT, máy móc thực hành có thể đã cũ, lạc hậu so với thực tế. Vì vậy, hành chẳng có tác dụng.
- Những sai lầm phải bị phê bình:
+ Học mà không thực hành: Con người sẽ trở nên không thực tế. Khi đó họ sẽ nhìn nhận vấn đề 1 cách phiến diện. Ví dụ: trong xã hội phong kiến ở Việt Nam, cách học phổ biến là "tầm chương trích cú". Cuối cùng, những học giả được đào tạo chỉ biết sách vở, do thiếu thực hành. Kết quả là xã hội trì trệ và kém phát triển.
+ Nếu bạn hành mà không học hỏi thì bạn sẽ thiếu kiến thức cơ bản. Tất cả những thành tựu trong công việc chỉ dựa trên kinh nghiệm bản thân. Thành công này chắc chắn sẽ không tiếp tục, chắc chắn là không bền vững.
c. Kết bài
- “Học đi đôi với hành” là 1 phương châm khoa học, rất quan trọng trong xã hội ngày nay.
- Phải biết kết hợp giữa việc học lý thuyết và thực hành những điều đã học. Nó giúp chúng ta rèn luyện bản thân để có ích cho xã hội.
- Phải biết “học đi đôi với hành” để trở thành người có ích cho cộng đồng và đất nước.