Tập làm văn: Tả đồ vật (trang 75 sgk Tiếng Việt 5)
Câu 1 (trang 75): Em hãy chọn một trong các đề bài sau rồi làm:
1. Tả quyển sách Tiếng Việt 5, tập hai của em.
2. Tả đồng hồ báo thức.
3. Tả một đồ vật trong nhà mà em yêu thích.
4. Tả một đồ vật hoặc món quà có ý nghĩa sâu sắc với em.
5. Tả một đồ vật trong viện bảo tàng hoặc trong nhà truyền thống mà em đã có dịp trông thấy.
Giải đáp:
Đề 1. Tả quyển sách Tiếng Việt 5, tập hai của em.
Để chuẩn bị vào năm học mới, bố đã mua cho em một bộ sách giáo khoa lớp Năm, trong đó có cuốn sách Tiếng Việt 5, tập hai.
Quyển sách Tiếng Việt mới đẹp làm sao! Sách có hình chữ nhật, bìa sách được trang trí bằng một bức tranh với nhiều màu sắc đẹp mắt. Mặt bìa láng bóng. Sách mới nên có mùi thơm thơm đặc trưng của giấy và mực in.
Quyển sách khá dày, gồm 176 trang. Ngoài bìa phía trên in chữ TIẾNG VIỆT 5, tập hai bằng mực xanh và đỏ. Phía dưới là bức tranh có các hạn nhỏ thuộc nhiều dân tộc khác nhau đang trò chuyện vui vẻ. Trước mặt các bạn, những cô chú xã viên đang miệt mài cấy lúa, cày bừa trên cánh đồng. Xa xa là một ngôi làng nhỏ, mái ngói đỏ tươi nấp dưới những rặng tre đang rì rào trong gió. Xa nữa là biển cả mênh mông, từng đoàn tàu căng buồm ra khơi đánh cá. Trên bầu trời trong xanh, đàn hải âu đang nghiêng mình chao liệng.
Lật sách ra, trang thứ nhất ghi tên các tác giả của quyển sách và một lần nữa chữ TIẾNG VIỆT 5, tập hai lại được lặp lại, có lẽ là để nhắc nhở chúng em hãy học tập thật tốt môn Tiếng Việt này. Trang 3 là chủ điểm Người công dân và một bức tranh vẽ cảnh các bạn thiếu niên khăn quàng đỏ thắm trên vai đang vui vẻ bỏ phiếu thể hiện vai trò và trách nhiệm của người công dân. Trang số 4 ghi chữ “Tuần 19” và bài tập đọc Người công dân số Một nói về những suy nghĩ, trăn trở và hành động của người thanh niên Nguyễn Tất Thành trên con đường ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bên trong các bài học sắp xếp theo tuần, xoay quanh năm chủ điểm: Người công dân, Vì cuộc sống thanh bình, Nhớ nguồn, Nam và nữ, Những chủ nhân tương lai. Những trang giấy đều thuộc loại tốt nên chữ đen nổi bật trên nền giấy trắng tinh. Để thuận tiện cho việc học tập, sách đã sắp xếp khéo léo các bài học theo từng chủ điểm từng tuần học, từng phân môn. Ngoài nội dung bằng chữ, sách còn ghép các bức tranh minh hoạ sinh động giúp các em hứng thú hơn trong học tập. Các phân môn học trong tuần gồm Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện và Tập làm văn. Các phần ghi nhớ được đóng khung với nền màu xanh biếc, gây được sự chú ý nhất định cho người đọc. Trước mỗi chủ điểm sách đều dành hẳn một trang và hình minh hoạ cho chủ điểm đó. Mỗi bài học lại thường có hình minh hoạ rõ ràng, màu sắc hấp dẫn.
Quyển sách TIẾNG VIỆT 5, tập hai sẽ luôn là người bạn đồng hành cùng em trong suốt học kì II giúp em học hỏi thêm nhiều kiến thức và học tốt môn Tiếng Việt. Em rất yêu quý quyển sách của em! Hằng ngày, sau khi học bài xong, em bỏ sách ngay ngắn vào cặp. Mai này dù lên lớp 6, em vẫn xem quyển sách ấy là người bạn tri kỉ giúp em vững kiến thức bước vào ngưỡng cửa cấp II.
Đề 2: Tả đồng hồ báo thức.
Nhân dịp sinh nhật lần thứ chín của em, bố có mua tặng em một chiếc đồng hồ báo thức. Nó là một vật dụng luôn cần mẫn làm việc và là một đồ dùng không thể thiếu đối với em.
Đồng hồ có cấu tạo khá đơn giản, vỏ đồng hồ là một khối nhựa cứng hình mặt trăng xinh xắn. Mặt số hình tròn, màu trắng sữa, nổi bật trên mặt số là các chữ số màu đen. Bao quanh mặt số là một viền nhỏ vòng tròn bằng đồng xi bóng loáng. Tuy mảnh mai nhưng nó cũng làm cho mặt số nổi bật lên, rồi gắn chặt trên mặt số là bốn cây kim có hình dáng khác nhau. Kim giờ màu đỏ, to hơn các kim khác và ngắn nhất. Kim phút màu đen, mảnh và dài hơn! Kim giây bé nhất nhưng cũng là kim chuyển động nhanh nhất. Còn kim báo thức to hơn kim giây và có màu xanh lá cây rất đẹp và nổi bật. Bốn bạn kim này là những nhân vật trực tiếp đếm thời gian. Dưới sự điều hành của bộ máy, các bạn ấy luôn nhận nhiệm vụ và cần cù làm việc. Dù ban ngày hay ban đêm thì các bạn ấy cũng làm hết chức năng của mình. Mỗi khi cần lấy giờ hay hẹn giờ cần dậy, em luôn sử dụng các nút nhỏ ở phía sau đồng hồ. Mở nắp nhỏ ở phía sau ấy là chỗ gắn pin. Cung cấp đủ năng lượng điện trong pin là kim đồng hồ sẽ chuyển động không ngừng. Tiếng kim chạy rất êm, đến gần nghe tích tắc, tích tắc. Tiếng nhạc chuông báo thức có âm thanh trong trẻo, ngân vang. Chỉ cần nghe thất tiếng nhạc chuông này em liền thức giấc ngay và chuẩn bị đón một ngày mới. Đồng hồ báo thức luôn có mặt ở góc học tập đã giúp ích cho em. Nhờ có cái chân đế ở phía sau mà nó luôn luôn đứng vững. Bao nhiêu năm tháng đã đi qua, mặc cho góc học tập của em có nhiều vật dụng thay đổi nhưng riêng đồng hồ vẫn đứng đấy để trang trí bàn học và gọi em dậy học bài đúng lúc.
Đồng hồ vẫn luôn lặng lẽ đếm thời gian. Tuy làm việc đã nhiều nhưng nó báo giờ giấc rất chính xác. Đồng hồ đã giúp em học tốt, nó luôn thầm nhắc em không để thời gian trôi đi vô ích.
Đề 3: Tả một đồ vật trong nhà mà em yêu thích.
Vào năm học được ít ngày, bố mua cho em một chiếc xe đạp mới tinh và đẹp lắm. Em mừng vui vô cùng, gặp bạn nào thân thiết em cũng khoe luôn.
Chiếc xe đạp của em còn mới tinh. Em thấy nó còn xinh xắn hơn cả chiếc xe mini Trung Quốc của chị Phương.
Chiếc xe có nước sơn màu xanh ngọc, trang nhã đúng màu mà em yêu thích. Hai vành xe sáng bóng soi được cả ngón tay khi em chùi vào. Những chiếc nan hoa bé nhỏ nhưng thật cứng tỏa ra hết cả vòng tròn bánh xe, trong thật đẹp mắt. Người thợ khéo tay còn gắn ở một bên tay lái chú Hugô dễ thương làm bằng thiếc mỏng. Cái chuông được gắn ở bên tay lái trái, thỉnh thoảng kêu "kính coong, kính coong... " thật tinh nghịch và vui tai. Bên phải của bánh xe sau có cái chân chống vững chắc, tiện lợi khi dựng xe mà xe không bị đổ xuống, em thấy thật yên tâm! Khi đạp xe, những tiếng ro ro của chiếc xích xe khiến em cảm thấy con đường đến trường như ngắn lại. Chiếc xe thật khỏe, vì có lúc nó chở cả em và bạn Dũng mà vẫn chạy bon bon trên đường làng. Khi gặp nơi đông người, cái phanh xe gắn ngay phía dưới tay em cầm lái giúp em điều khiển xe rất dễ dàng. Em yêu chiếc xe đạp này lắm. Em luôn coi nó là "người bạn tốt".
Hàng ngày, em vẫn dành chút thời gian để lau chùi xe đạp cho sạch sẽ. Vì vậy mà hơn một năm trôi qua chiếc xe vẫn còn mới lắm. Chiếc xe đã gắn bó với bước chân đến trường của em, vì thế, càng yêu quý chiếc xe bao nhiêu em càng biết ơn tình yêu thương, sự quan tâm của gia đình dành cho em bấy nhiêu.
Đồ vật gần gũi và thân thuộc nhất đối với mỗi người học sinh có lẽ là chiếc cặp sách. Bước chân tung tăng tới trường ai ai cũng đều khoác trên vai chiếc cặp sách xinh xinh. Em cũng giống như vậy. Em rất yêu chiếc cặp sách của em. Đó là món quà mà bố tặng cho khi em đạt danh hiệu học sinh xuất sắc. Đó là người bạn thân thiết của em.
Đề 4. Tả một đồ vật hoặc món quà có ý nghĩa sâu sắc với em.
Chiếc cặp sách của em có hình hộp chữ nhật. Cặp khá to và rộng để em có thể đem đủ sách vở cho mỗi ngày đến trường. Cặp được làm bằng vải bò, rất bền và không dễ bị rách. Cặp có hai quai đeo phía sau để em có thể đeo lên vai mỗi khi tới trường.
Bố thật tinh ý khi chọn cho em chiếc cặp màu xanh lam bởi đó là màu sắc mà em vô cùng yêu thích. Màu xanh là màu của niềm tin và hy vọng. Em bước vào năm học mới với biết bao kì vọng và mong muốn sẽ gặt hái được thật nhiều thắng lợi. Phía trước cặp có thêu hình chú mèo con đáng yêu đang tung tăng trên đường. Em tuổi mèo và em cũng rất thích các bạn mèo. Mỗi lần ngắm nhìn chiếc cặp là em lại đưa tay mân mê chú mèo con xinh xinh ấy. Phía đường viền nắp cặp có màu vàng. Trên nền xanh lại có viền vàng nhìn rất nổi bật và bắt mắt. Từng đường may được máy một cách rất cẩn thận, tỉ mỉ và tinh xảo. Khóa của cặp được làm bằng sắt xi bóng nhoáng không sợ bị hoen gỉ. Mặt sau của chiếc cặp cũng là màu lam nhưng đậm hơn ở phía trước. Bố nói màu đậm như thế này nhìn sạch sẽ hơn, lỡ chẳng may con có lỡ dây bẩn cũng khó nhìn ra. Dây quai cặp cũng là màu xanh đậm, có lót đệm nên rất êm. Những ngày phải mang nhiều sách vở đến lớp khoác trên vai chiếc cặp em không hề cảm thấy đau một chút nào.
Mở cặp ra phía bên trong cặp có ba ngăn, một ngăn chính và hai ngăn phụ. Mỗi ngăn được ngăn cách bởi một lớp vải dù, mềm và chắc. Ngăn chính em xếp sách vở ngay ngắn, gọn gàng vào. Hai ngăn phụ em để dành xếp giấy tờ và dụng cụ học tập. Bố trí khoa học như vậy nên mỗi lúc em mở cặp để tìm kiếm đồ vật gì đều không phải mất quá nhiều thời gian. Đóng nắp cặp lại em còn được nghe tiếng kêu lách tách, nghe thật sự rất vui tai.
Chiếc cặp sách là một vật vô cùng hữu ích và thân thiết với em. Nó giúp em bảo quản sách vở, chứa đựng nguồn tri thức của em. Cặp đồng hành với em mỗi ngày nắng mưa tới trường. Em coi cặp giống như người bạn thân của em. Em sẽ giữ gìn thật cẩn thận để cặp luôn được bền và đẹp.
Đề 5: Tả một đồ vật trong viện bảo tàng hoặc trong nhà truyền thống mà em đã có dịp trông thấy.
Hè vừa qua, trường em tổ chức cho học sinh toàn trường đi tham quan viện bảo tàng Lịch sử Hà Nội. Tại viện bảo tàng Lịch sử Hà Nội, em được chiêm ngưỡng chiếc trống đồng Đông Sơn.
Trong gian phòng lớn, nơi trưng bày các đồ vật cổ, trống đồng Đông Sơn được đặt trên một bục gỗ khắc chạm bốn chân theo kiểu cổ. Đường bệ và uy nghi, chiếc trống đồng có hình dáng đồ sộ, cân đối và hài hoà. Chiếc trống đồng Đông Sơn được đúc bằng đồng, hình khối trụ tròn, cao sáu mươi xăng-ti-mét, hình thể phức tạp: phần trên phình ra hình nón cụt, ở giữa thắt lại hình trụ tròn, phần thân loe ra hình phễu. Mặt trống hình tròn, đường kính chín mươi xăng-ti-mét gồm nhiều vòng tròn đồng tâm có hình khắc chìm trên mặt trống. Giữa mặt trống có hình ngôi sao lớn. Vòng tròn ngoài ngôi sao cũng khắc chìm các hình ngôi sao nhỏ hơn. Mỗi ngôi sao có mười hai cánh. Ngôi sao lớn ở giữa biểu tượng cho tục lệ thờ Thần Mặt Trời của người Việt cổ, mười tám ngôi sao xung quanh xen lẫn mười tám con chim tượng trưng cho mười tám đời vua Hùng Vương. Bao quanh các ngôi sao có hoạ tiết lông công, hình conngười múa, người giã gạo, người đánh trống hoặc bơi thuyền. Hoạ tiết hình chim có các hình tam giác đan xen vào nhau. Hoa văn hình học xung quanh mặt trống là các đường chấm nhỏ, vành chỉ trơn láng, vành tròn ngoài có hoa văn hình răng cưa, và các vạch ngắn song song.
Thân trống là phần hình trụ của khối tròn. Thân trống có hình hoa văn khắc hình chiếc thuyền, hình võ sĩ, chim muông và thú. Tất cả hình ở thân trống được khắc nổi, trang trí theo hình chữ nhật. Hình ảnh được sắp xếp rất cân đối. Quai trống được đúc theo hình dâythừng bện. Thân trống trơn láng, không có hoa văn, cao khoảng mười lăm xăng-ti-mét. Chân trống là phần loe hình phễu của khối trụ tròn. Trống đồng Đông Sơn là cổ vật thể hiện đời sống của nhân dân và văn hoá của người Việt cổ. Theo lời cô thuyết minh của viện bảo tàng, trống đồng được làm từ thế kỉ VI và thể kỉ VII trước Công nguyên. Các hình khắc trên trống đồng cho ta hình dung được nền văn minh nông nghiệp của nước ta thời kì trước Công nguyên. Hoa văn của trống ghi lại các hoạt động của xã hội Lạc Việt thời đó: dân ta đã biết đánh bắt hải sản, chăn nuôi gia súc, sản xuất thủ công và sử dụng sức kéo trong nông nghiệp.
Trống đồng thực chất là một nhạc khí. Người Việt cổ dùng trống đồng trong hội hè, đình đám, lễ lạc, tang lễ. Trống đồng còn là biểu tượng quyền lực của các thủ lĩnh bộ tộc. Trống đồng Đông Sơn cho ta biết nền văn minh văn hoá Đông Sơn của người Việt cổ. Việc nghiên cứu lịch sử, thời gian, biểu tượng của trống còn đang tiến hành nhưng những gì em biết được từ cô thuyết minh cũng làm em bồi hồi cảm động. Bộ sưu tập trống đồng Đông Sơn của Việt Nam là bộ sưu tập trống lớn nhất thế giới. Hoa văn trên mặt trống thể hiện nền văn hoá lâu đời của dân tộc Việt. Trải qua bao nhiêu thế kỉ, trống đồng Đông Sơn vẫn là nét son sáng chói trong lịch sử Việt Nam. Không chỉ có thế, trống đồng còn là một đề tài nghiên cứu hấp dẫn các nhà khảo cổ trong và ngoài nước. Được chiêm ngưỡng trống đồng Đông Sơn thật là một nịềm vui lớn và may mắn của em.
Em ra về mang theo trong tâm hồn xúc cảm dạt dào của lòng tự tôn dân tộc. Em được mở mang thêm kiến thức về lịch sử nước nhà. Em sẽ cố gắng học thật giỏi để xứng đáng là con cháu Lạc Việt, cống hiến hết sức mình cho Tổ quốc đúng như lời Bác Hồ dạy: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. ”.
Bài trước: Tập đọc: Cửa sông (trang 75 sgk Tiếng Việt 5) Bài tiếp: Luyện từ và câu: Liên kết các câu trong bài bằng cách thay thế từ ngữ (trang 76 sgk Tiếng Việt 5)