Phân tích: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
- Phiên âm:
- Dịch nghĩa:
- Dịch thơ:
I. Đôi nét về tác giả Trần Nhân Tông
- Trần Nhân Tông sinh năm 1258, mất năm 1308, tên thật là Trần Khâm, con trưởng của Trần Thánh Tông
- Trần Nhân Tông là một vị vua yêu nước, anh hùng, nổi tiếng khoan dung, độ lượng và nhân ái. Ông đã cùng vua cha lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên và đều giành được những thắng lợi vẻ vang.
- Vua Trần Nhân Tông theo đạo Phật. Năm 1299, ông về tu ở chùa Yên tử (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay) và trở thành vị tổ thứ nhất của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.
- Trần Nhân Tông là một nhà văn hóa, một nhà thơ tiêu biểu của thời Trần.
II. Đôi nét về tác phẩm Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
1. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:
Bài thơ được sáng tác trong dịp nhà vua Trần Nhân Tông được về thăm quê cũ ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
2. Bố cục của bài gồm 2 phần:
- Phần 1 (hai câu đầu): Cảnh thôn xóm vùng Thiên Trường trong buổi chiều tà.
- Phần 2 (hai câu còn lại): Cảnh sắc đồng quê dân dã, mờ ảo trong buổi chiều tà.
3. Giá trị nội dung
Cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu. Nơi đây vẫn ánh lên sự sống của con người trong sự hòa hợp với cảnh vật thiên nhiên một cách thơ mộng. Qua đó giúp chúng ta thấy rằng, tác giả tuy có địa vị cao quý nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương dân dã, thanh bình.
4. Giá trị nghệ thuật của bài
- Bài thơ là sự kết hợp điệp ngữ và tiểu đối sáng tạo
- Nhịp thơ êm ái hài hòa
- Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa.
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
III. Dàn ý phân tích bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Trần Nhân Tông
- Giới thiệu bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” (về hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ, …)
II. Thân bài
1. Hai câu thơ đầu
- Về thời gian: Buổi chiều tà, trời sắp về tối
- Về không gian: trước xóm sau thôn – khung cảnh làng quê Việt Nam
- Cảnh vật: “bán vô bán hữu” - phong cảnh mờ ảo, vừa như có lại vừa như không có, vừa thực, lại vừa không có thực gợi lên quang cảnh làng quê yên bình đang mờ dần trong sương khói, cảnh vừa có nét thực vừa có nét ảo.
⇒ Khung cảnh thiên nhiên hiện lên thật độc đáo, mơ hồ như một bức tranh.
2. Hai câu thơ cuối bài
- Cảnh vật hiện lên nơi làng quê trong buổi chiều tà mờ ảo đó là:
+ Đàn trâu trở về
+ Cò trắng từng đôi chao liệng xuống đồng.
⇒ Cảnh vật vô cùng bình dị, gần gũi, thân quen nơi làng quê Việt Nam.
- Âm thanh: Có tiếng sáo vẳng – tiếng sáo văng vẳng đâu đó nơi chốn làng quê
⇒ Bức tranh làng quê thanh bình, yên ả và nên thơ.
⇒ Giữa khung cảnh làng quê ấy, nhà thơ như chìm đắm vào cảnh vật, non sông của đất nước mình. Nhà thơ mở rộng tấm lòng đón nhận vẻ đẹp bình dị, yên ả và thanh bình của cuộc sống.
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ:
+ Nội dung: Bức tranh làng quê hiện lên trầm lặng, thanh bình nhưng vô cùng nên thơ. Hòa với đó là vẻ đẹp tâm hồn của tác giả yêu thiên nhiên, đắm mình vào thiên nhiên.
+ Nghệ thuật: thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, nhịp thơ êm đềm, ngôn ngữ miêu tả mang màu sắc hội họa…
Bài trước: Phân tích tác phẩm: Phò giá về kinh Bài tiếp: Phân tích: Bài ca Côn Sơn