Bài 16: Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm ( trang 36 Bài tập tình huống GDCD 6)
Bài 1 trang 36 Bài tập tình huống GDCD 6: Trong tình huống 1, trước tình hình cả bố lẫn mẹ đều đánh con tàn nhẫn, bà con hàng xóm đã đến can và nói: “Đánh con như vậy cũng là phạm pháp”. Em nghĩ như thế nào về lời can đó của hàng xóm, đúng hay sai?
Trả lời:
Lời can đó là hoàn toàn chính xác. Bởi vì, việc bố mẹ đánh con trong tình huống này đã gây tổn hại tới sức khỏe, tính mạng của người con. Đó là hành vi vi phạm quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, tính mạng, nhân phẩm.
Bài 2 trang 36 Bài tập tình huống GDCD 6: Trong tình huống 2, em hãy phân tích các điều sai trái của lão Ngạch. Lão Ngạch có vi phạm pháp luật không?
- Đọc câu cuối ở tình huống 2: “Cuối cùng chỉ hòa giải thôi”. Em có suy nghĩ gì?
Trả lời:
Những điều sai trái của lão Ngạch là: đầu tiên, lão Ngạch chưa hiểu được đầu đuôi ngọn ngành câu chuyện đã vội nổi nóng, không quan tâm tới sức khỏe thân thể, tính mạng của người khác; chỉ bảo thủ nghe theo lời con mình rồi làm hại người khác.
Trong tình huống này, lão Ngạch đã vi phạm vào tội cố ý gây thương tích cho người khác, hành vi của lão là đã vi phạm quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe và tính mạng.
“Cuối cùng chỉ hòa giải mà thôi”. Câu nói này có ý chỉ rằng, hành vi ngỗ ngược không xem người khác ra gì của lão đã khiến mọi người khiếp sợ, không ai dám lên tiếng và cũng không ai dám phản đối, vì dù có phản đối thì lão Ngạch cũng sẽ đánh cho một trận, gây tổn hại tới sức khỏe.
Bài 3 trang 36 Bài tập tình huống GDCD 6: Trong Tình huống 3, em hãy chỉ rõ Huy và ông Tước đã vi phạm pháp luật ở điểm nào?
Trả lời:
Huy đã vi phạm pháp luật về việc trộm cắp tài sản của nhà ông Tước (trộm hai con gà).
Ông Tước đã vi phạm pháp luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích về sức khỏe và tính mạng cho người khác (đặt bẫy có tẩm thuốc độc ở chỗ chuồng gà). Đó chính là hành vi xâm hại quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, tính mạng.
Bài 4 trang 36 Bài tập tình huống GDCD 6: Em hãy tìm bộ luật Dân sự và đọc thật kỹ Chương III: Cá nhân, mục 2: Quyền nhân thân.
Trả lời:
Điều 25: Quyền nhân thân
1. Quyền nhân thân đã được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với từng cá nhân, không được chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan tới quy định khác.
2. Việc xác lập và thực hiện quan hệ dân sự liên quan tới quyền nhân thân của người chưa đủ tuổi thành niên, người đã mất năng lực hành vi dân sự, người có nhận thức gặp khó khăn, làm chủ hành vi phải được người đại diện theo pháp luật của người này đồng tình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc theo quyết định của Tòa án.
Việc xác lập và thực hiện quan hệ dân sự có liên quan tới quyền nhân thân của người bị tuyên bố mất tích, người đã chết cần phải được sự đồng ý của chồng, vợ hoặc con đã tuổi thành niên của người đó; trường hợp không có những người này thì cần phải được sự đồng ý của bố, mẹ của người bị tuyên bố bị mất tích, người đã chết, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
Em hãy rút ra bài học về đạo đức (trang 36):
Trả lời:
Khi bản thân em bị người khác xâm phạm về sức khỏe, tính mạng hay khi danh dự, nhân phẩm em bị xúc phạm thì em sẽ trình báo với các cơ quan lãnh đạo, công an, nhà trường hoặc gia đình, bố mẹ để họ có biện pháp giúp đỡ và bảo vệ em.
Đối với mỗi con người thì tính mạng là điều quan trọng nhất. Nhưng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm cũng là điều vô cùng quan trọng. Vì vậy, cần phải tôn trọng vào bảo vệ sức khỏe, tính mạn, danh dự và nhân phẩm của mọi người.